Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2014

Dứt khoát không để vở nợ.

  "...Dứt khoát không để vở nợ." _  Khi tôi nói như thế là lúc tôi còn thanh thản thoải mái với cuộc sống kinh tế , tất nhiên thương trường là chiến trường , làm ăn có lãi có lổ ... nhưng tôi đủ khả năng giải quyết và trang trải ... nợ nần ! Tôi đang nói gì thế nhỉ !!?? _ Khi nói về kinh tế bản thân , gia đình hay Cty doanh nghiệp của một ai đó mà người ta nói đến , nghỉ đến hai chử "vở nợ" là lúc dồn hết tâm lực để "vực dậy" nhưng khi không vực nổi, khi cái "xác đã không hồn" người ta nghỉ đến cách giải quyết "phá sản" và "thanh thản" chấp nhận thất bại và có quyết định rút tỉa kinh nghiệm để làm lại từ đầu !                        
  Nhưng "... Dứt khoát không để vở nợ." là câu nói của một trong những người có trọng trách cao nhất của một Quốc gia , dẫn dắt , nắm giử vận mệnh của cả một dân tộc thì thực trạng nền kinh tế và thảm trạng "vở nợ" đang bên ... bờ vực ! Vậy nhưng cách giải quyết "phá sản" và sự "thanh thản chấp nhận" không thể là "cách" và "thái độ" của họ được !? Tất nhiên là không ai đi bầu cho những người mà đoán được đến lúc họ chơi một câu :"...Dứt khoát không để vở nợ." và càng không thể bầu cho cái "thái độ thanh thản" đó cả ! Thế nhưng thực tế nó đã được phát ra từ một "Hội nghị toàn quốc " Thế thì trách nhiệm của những người cầm lá phiếu bầu ra những người đại diện có "cách" (hành động và quản lý) và "thái độ" như thế có " "thanh thản" chấp nhận thất bại và có quyết định rút tỉa kinh nghiệm để làm lại từ đầu !" !? Không một ai và cả những trí thức lớn , những người có tâm có tầm cũng chỉ phản biện "hòa bình" yếu ớt xoay quanh chỉ ra những sai sót quản lý , sai lầm chính sách , cơ chế ... chỉ phản biện mà thiếu phản ứng !  Điều này dể hiểu thôi ! Bởi chúng ta đang sống trong cái rọ của sự độc quyền dị biệt ! Và cũng chính trong cơ chế đó nên có nhiều những câu nói của những "lảnh đạo" , "cách" và "thái độ" của họ và "cách" và "thái độ" của người dân nó cũng dị biệt và lạ lùng !
     Đó là lý lẻ để tôi nghỉ đến ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là tác giả câu nói trên sau khi ông thả "quả bom tấn" chỉ trích và thừa nhận từ xưa tới nay hệ thống thống kê và phương pháp tính GDP không xác thực của ... nền kinh tế ! . Tại sao ông nói như thế ? _ Tại vì nó thực là như thế ! Ai cũng biết thế ! . Tại sao đến bây giờ ông mới nói ? _ Tại bây giờ mới là thời điểm nói ra ! . Tại sao nói ra phải có thời điểm và tại sao bây giờ mới là thời điểm nói ra và mục đích nói ra chính là gì (!?)là một chuổi những phân tích có "hệ thống" không thể không dị biệt và lạ lùng ... đến là lạ lùng và dị biệt ! Hy vọng đây là những chỉ dấu cộng hưởng đậm nét quyết định một sự thay đổi ngoạn mục và cả những "hạng mục" hay còn nhiều cách gọi tên thú vị khác ! Dẩu sao cũng hy vọng ... "Dứt khoát không để vở nợ." !

Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014


Một thất bại hoàn toàn và trái khuấy của Trung Quốc tại Biển Đông

Trần Ngọc Cư dịch
“Bất cứ điều gì mà Bắc Kinh hi vọng đạt được trong việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981 đều không thành công – dù đó là dầu lửa, lợi thế lãnh thổ, hay thắng lợi chiến lược dài hạn.”
clip_image002
Dù bằng bất cứ thước đo nào mà ta lựa chọn, cuộc phiêu lưu giàn khoan gần đây của Trung Quốc là một thất bại thê thảm. Bắc Kinh đã không đem về thêm một giọt dầu nào cho giới tiêu thụ Trung Quốc, không lấy thêm được một tấc lãnh hải nào, mà chỉ dâng hiến cho Mỹ một lợi thế chiến lược trong khu vực. Sự đoàn kết của khối ASEAN vẫn được duy trì vững vàng và địa vị của các thế lực “thân Bắc Kinh” tại các nước có tranh chấp tại Biển Đông, đặc biệt tại Việt Nam, đã bị suy yếu nghiêm trọng. Trung Quốc đã phơi bày sự kém cỏi của mình trong việc thực hiện chính sách đối ngoại. Vì sao mọi việc đã diễn ra trái khuấy như vậy?
Chúng ta không biết được giới lãnh đạo Trung Quốc hi vọng sẽ đạt được điều gì khi họ phê chuẩn việc hạ đặt giàn khoan lớn nhất của Trung Quốc và triển khai một đội hạm thuyền hộ vệ vào vùng nước cũng được Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Không có dấu hiệu gì cho thấy chiến dịch này chỉ là một nỗ lực tìm kiếm dầu khí. Có nhiều địa điểm thuận lợi hơn để Trung quốc đầu tư thăm dò. Ngày 19 tháng Ba, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) công bố đã phát hiện một khu vực dầu khí có kích cỡ trung bình tại một vùng nước không tranh chấp gần Đảo Hải Nam. Việc khai thác khu vực này đã bị đình hoãn trong trong thời gian cuộc phiêu lưu Hoàng Sa đang diễn ra ở một vùng nước xa xôi về phía nam.
Hai vùng đáy biển được giàn khoan khủng Hải Dương 981 thăm dò không có viễn ảnh tốt về trữ lượng dầu khí. Một báo cáo năm 2013 do Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ đưa ra cho thấy rằng tiềm năng dầu khí của khu vực Hoàng Sa được coi là thấp. Một dấu hiệu có ý nghĩa là Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc [CNOOC], một công ty có kinh nghiệm nhất của Trung Quốc về khai thác dầu khí ngoài khơi, đã không tham dự vào cuộc viễn chinh này. Mặc dù một chi nhánh của Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc là Công ty Hữu hạn Cung cấp Dịch vụ Khai thác Dầu khí Trung Quốc (COSL) điều hành giàn khoan Hải Dương 981, nhưng toàn bộ hoạt động tìm kiếm này lại do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) điều khiển – đây là một công ty rất thiếu kinh nghiệm thăm dò tại Biển Đông.
Giàn khoan Hải Dương 981 đã chấm dứt nhiệm vụ một tháng trước hạn kỳ, khi đối diện với trận siêu bão Rammasun đang lù lù ập đến. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc tuyên bố rằng giàn khoan này đã tìm thấy dầu khí tại Hoàng Sa, nhưng lại rất mập mờ về chi tiết và số lượng. Gần như chắc chắn rằng các trữ lượng dầu ở đây sẽ không bao giờ được khai thác để bán ra, vì lý do kỹ thuật lẫn lý do chính trị. Hoạt động tìm kiếm này không thực sự liên quan đến dầu khí.
Ta có thể an tâm loại bỏ một động cơ chính ở đây. Mọi người đều biết rằng sứ mệnh của giàn khoan không phải là một âm mưu sách động tình tự yêu nước của người dân Trung Quốc vì, như nhà nghiên cứu Úc Andrew Chubb cho thấy, tin tức liên quan đến các đụng độ giữa hạm đội bảo vệ giàn khoan Trung Quốc và Cảnh sát biển Việt Nam được bưng bít trên truyền thông Trung Quốc cả một tuần sau đó.
Tuy nhiên, rất có thể Trung Quốc đã theo đuổi một mục đích chính trị khác. Một chiến dịch với tầm cỡ này chắc hẳn phải được lên kế hoạch trước và được thông qua ở cấp cao nhất của giới lãnh đạo. Nhà cầm quyền Trung Quốc thông báo rằng giàn khoan đã đến vị trí thăm dò vào ngày 3 tháng Năm, đúng một tuần trước khi hội nghị thượng đỉnh của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) diễn ra tại Myanmar. Có lẽ Bắc Kinh đã nuôi hi vọng lặp lại thắng lợi mà họ đã gặt hái tại cuộc họp Bộ trưởng Ngoại giao của các nước ASEAN tại Phnom Penh tháng Bảy 2012. Vào dịp đó, khối ASEAN đã chia rẽ: Campuchia phủ quyết bản tuyên bố chung, đẩy Philippines và Việt Nam vào thế cô lập trong cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc nuôi hi vọng đạt được một điều tương tự liên quan đến cuộc tranh chấp Hoàng Sa, thì kết quả đã hoàn toàn ngược lại. Các nước ASEAN đã xích lại gần nhau trong việc bày tỏ tình đoàn kết rất rõ nét và đã ra một tuyên bố chung, mà trên thực tế là yêu cầu Bắc Kinh rút lui. Đây là lần đầu tiên tổ chức này đã bày tỏ lập trường về quần đảo Hoàng Sa – vốn nằm trong một tranh chấp song phương thuần túy giữa Trung Quốc và Việt Nam (khác hẳn với các tranh chấp tại quần đảo Trường Sa liên quan tới năm nước thành viên ASEAN kể cả Indonesia). Andrew Chubb lý luận rằng sự bày tỏ tình đoàn kết thầm lặng này có tác động mạnh mẽ tại Bắc Kinh hơn hơn cả các tuyên bố ồn ào từ Washington.
Một số nhà bình luận cho rằng màn kịch giàn khoan là một ví dụ điển hình về thủ thuật “thái mỏng đòn chả (salami slicing)” – một tiến trình liên tục chiếm cứ Biển Đông bằng từng bước nhỏ, không thu hút quá nhiều chú ý của thế giới. Nhưng nếu đó là mục tiêu, thì kịch bản này đã thất bại vì, với việc rút lui giàn khoan, vùng lãnh hải này lại trở về tình trạng không có ai chiếm đóng. “Lát chả” đã tái hợp với đòn chả. Bộ Chính trị ĐCSTQ có thể đã cho rằng chỉ cần một tuyên bố quả quyết về quyền kiểm soát lãnh hải [maritime control] là có thể củng cố tuyên bố chủ quyền lãnh thổ đối với các hòn đảo, nhưng phản ứng cứng rắn của Việt Nam cũng là một bằng chứng hùng hồn không kém nhằm bác bỏ yêu sách chủ quyền này của Trung Quốc.
Hugh White, một nhà nghiên cứu Úc, đã tranh luận rằng mục đích của Trung Quốc trong việc gây ra các cuộc đối đầu như thế là cố tình phân tán mỏng và làm suy yếu các khâu nối kết an ninh ràng buộc Hoa Kỳ với Đông Nam Á. “Bằng cách đối đầu với các nước bạn của Mỹ bằng vũ lực”, ông nói, “Trung Quốc đặt Mỹ trước lựa chọn hoặc là phải bỏ rơi bạn bè của mình hoặc là đánh nhau với Trung Quốc. Bắc Kinh đang đánh cược rằng, đứng trước lựa chọn này, Mỹ sẽ xuống nước và bỏ mặc đồng minh và bạn bè của mình không có chỗ nương tựa. Việc này sẽ làm suy yếu các liên minh quân sự và đối tác của Mỹ, xói mòn quyền lực của Mỹ tại châu Á, và tăng cường quyền lực của Trung Quốc.”
Nhưng Việt Nam không phải là một đồng minh của Hoa Kỳ, vì thế màn kịch giàn khoan cho thấy rõ ràng hơn các vấn đề của việc một mình đơn độc đương đầu Trung Quốc. Tuy nhiên, khi gây ra cuộc đối đầu này, Bắc Kinh đã gặt hái một hậu quả ngược với dự kiến của White: đẩy Hà Nội tới gần Washington hơn. Như cuốn sách gần đây của David Elliott giải thích (mời đọc bài điểm sách của tôi ở ĐÂY), định hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung là thân Trung Quốc kể từ khi nước này chấm dứt việc thân Liên Xô. Trong hai thập kỷ vừa qua, chỉ khi nào những tiếng nói “thân Trung Quốc” bị suy yếu do các thất bại chính sách và do thái độ thù nghịch của Trung Quốc – thì những thành phần muốn tự do hóa thể chế mới có thể tái định hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Zachary Abuza đã cung cấp chúng ta một bản tường trình sâu sắc cho thấy cán cân lực lượng bên trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thay đổi do hậu quả của cuộc đối đầu tại giàn khoan. “Một hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng Sáu 2014 đã nhất trí lên án Trung Quốc về hành động hung hăng và xâm phạm lãnh thổ Việt Nam,” Abuza cho biết. Cuối tháng Bảy, Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị thực hiện một chuyến công du Hoa Kỳ theo lời mời của Bộ Ngoại giao Mỹ,gây chú ý cho nhiều người.
Nói tóm lại, bất cứ điều gì mà Trung Quốc hi vọng đạt được bằng cách triển khai giàn khoan Hải Dương 981 đều không thành tựu – dù đó là dầu lửa, lợi thế lãnh thổ, hay thắng lợi chiến lược dài hạn. Liệu ta có thể giải thích thế nào về thất bại này trong chính sách đối ngoại Trung Quốc? Tôi nghĩ rằng màn kịch giàn khoan cho thấy chính sách biển Hoa Nam [Biển Đông] của Trung Quốc chỉ là một phản ánh của các ưu tiên trong nước hơn là một chính sách đối ngoại được cân nhắc cẩn thận. Nói tóm lại, Biển Đông đã trở thành một cái máng heo khổng lồ [a giant pork barrel] cho một số tỉnh của Trung Quốc, các cơ quan nhà nước và các công ty quốc doanh.
Cách đây hai thập kỷ, John Garver đã tranh luận rằng việc hải quân Trung Quốc đẩy mạnh sự hiện diện của mình vào Biển Đông tiêu biểu cho "tác động qua lại của các lợi ích quốc gia và các lợi ích của bộ máy quan liêu". Những lợi ích này vẫn còn đang tương tác. Hải quân Trung Quốc đang trở nên lớn mạnh cùng với những ngân sách ngày một phình ra. Uy tín, sự thăng quan tiến chức và các phần thưởng tiền bạc cũng do sự tương tác này mà ra. Thực tế này cũng được áp dụng cho Lực lượng Tuần duyên Trung Quốc mới được thành lập – một năm sau khi một số cơ quan thẩm quyền về biển đảo được nhập chung thành một khối. Lực lượng Tuần duyên cần phải tập trung vào một cái gì khác hơn các tranh chấp nội bộ diễn ra trong quá trình hoàn tất sự hợp nhất nói trên. Cả Lực lượng Tuần duyên lẫn Hải quân Trung Quốc đang theo đuổi các sứ mệnh nhằm chứng tỏ sự hữu dụng và biện minh cho ngân sách của mình.
Và [trên Biển Đông] những gì phù hợp với quân đội cũng phù hợp với các tỉnh phía Nam. Hải Nam là tỉnh nhỏ nhất của Trung Quốc và tương đối nghèo, với một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Trong những năm gần đây, tỉnh này đã đầu tư nhiều nỗ lực to lớn vào việc phát triển các công nghiệp thủy sản và trở thành chuyên gia trong việc gặt hái các trợ cấp nhà nước để trang bị cho các tàu đánh cá mới. Một bản tường trình xuất sắc do hãng tin Reuters thực hiện ngay tại hiện trường vào tháng trước đã cho chúng ta biết đến hàng trăm, có lẽ hàng ngàn tàu đánh cả, đã nhận được trợ cấp từ 300 USD đến 500 USD mỗi ngày để đánh bắt cá trong các vùng biển có tranh chấp. Khi một thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc nhận xét rằng “nhà cầm quyền hậu thuẫn việc đánh bắt cá trong biển Hoa Nam [Biển Đông] để bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc”, nếu ta nói rằng nhà cầm quyền đã lợi dụng đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc để biện minh cho việc hậu thuẫn nghề cá, thì cũng chính xác không kém. Reuters khám phá ra rằng tám tàu kéo lưới được hạ thủy từ cảng Dongfang trên đảo Hải Nam mỗi chiếc sẽ được hưởng 322.500 USD tiền trợ cấp “đóng mới”.
Các công ty dầu khí cũng có thể chơi lá bài chủ quyền để hậu thuẫn cho các dự án bán thương mại [semi-commercial ventures] của mình tại Biển Đông. Vào tháng Năm 2012, khi Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc hạ thủy giàn khoan nước sâu do Nhà nước tài trợ, một giàn khoan từng nằm ở vị trí trung tâm của cuộc đối đầu tại Hoàng Sa, tức giàn khoan Hải Dương 981, vị Chủ tịch của tập đoàn này đã có lối mô tả nổi tiếng khi ông gọi nó là “lãnh thổ quốc gia di động và là một vũ khí chiến lược.”
Do đó, người ta lấy làm lạ là Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc [CNOOC] đã không chỉ huy cuộc viễn chinh tại Hoàng Sa. Vì sao có sự kiện này? Chúng tôi không trực tiếp biết được các âm mưu trong tập đoàn nhưng một vài lý giải đã gợi ý về điều này. Có thể Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc [CNPC] đã tự nguyện chấp nhận những rủi ro mà Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc không dám làm – cả rủi ro kỹ thuật lẫn rủi ro chính trị. Đây là lần đầu tiên mà giàn khoan Hải Dương 981 được sử dụng trong vùng nước sâu và trong lãnh hải có tranh chấp. Có thể Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc đã nhanh chân hơn Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc bằng cách đi cắm dùi để giành chủ quyền tại một vùng chưa được thăm dò. Hoặc có thể ban quản lý cao cấp của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc đang tìm cách thoát ra khỏi những vấn đề chính trị nghiêm trọng. Những cáo buộc tham nhũng ngày một chồng chất lên công ty này, đang trở thành một tai tiếng chính trị quốc gia. Ban quản lý của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia có thể đã coi cái sứ mệnh cắm lá cờ tổ quốc lên vùng lãnh hải có tranh chấp như một cách để cầu cạnh ân huệ từ Bộ Chính trị và mong cứu lấy sinh mạng chính trị của mình.
Nói thế không có nghĩa là để phủ nhận sự kiện là các lực lượng Trung Quốc tham dự vào cuộc đối đầu tại giàn khoan Hải Dương 981 đã hết lòng tin tưởng vào chính nghĩa của đòi hỏi chủ quyền mà nước họ đã tuyên bố trên Biển Đông. Huyền thoại về “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc” đã được gieo vào đầu óc của nhiều thế hệ con em Trung Quốc. Trong một bài viết khác, tôi đã tranh luận rằng sự tin tưởng này đặt cơ sở trên những giải thích lệch lạc về lịch sử Đông Nam Á do các học giả Trung Hoa Dân Quốc gây ra vào đầu thế kỷ 20, nhưng tôi tin chắc rằng các lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc cũng thật lòng tin tưởng vào tính chính xác của huyền thoại nói trên.
Tuy nhiên, đối với các nhóm lợi ích đặc biệt bên trong bộ máy quan liêu của Đảng và Nhà nước Trung Quốc, Biển Đông đã trở thành một bịch quà chính trị khổng lồ. Thỉnh thoảng, các nhóm lợi ích chỉ việc đánh vào vấn đề Biển Đông là có thể khởi động thêm một dòng chảy trợ cấp được ban phát từ trên. Chính sách của Trung Quốc đối với Biển Đông hiếm khi là kết quả của các lý luận chín chắn được cân nhắc và đúc kết thành một mối, mà thường là hậu quả khó lường của một sự tích tụ các cuộc vận động hành lang. Khi các nhóm lợi ích này cấu kết với nhau, họ sẽ tạo thành sức mạnh vô song: họ có thể khuynh đảo chính sách của Đảng Cộng sản theo chiều hướng có lợi cho minh. Dù vì tinh thần dân tộc chủ nghĩa, vì an ninh quốc gia, vì lợi nhuận hoặc vì công ăn việc làm, có một điều mà tất cả các nhóm lợi ích có thể đồng ý với nhau là, Trung Quốc cần phải tiếp cận các tài nguyên của Biển Đông.
Vô số nhà bình luận đã bị các nỗ lực tuyên truyền của Trung Quốc lừa bịp. Huyền thoại về khả năng bách chiến bách thắng rất khó lường của Bắc Kinh có gốc rễ từ những trang xã luận của rất nhiều tờ báo. Do đó, thậm chí cả khi Trung Quốc phạm phải một sai lầm, nhiều người vẫn cho rằng đó chỉ là một cách ngụy trang cho một âm mưu tinh vi và thâm độc hơn. Đã đến lúc cần phải xua tan cái huyền thoại đó đi và nhìn tận mặt các sai lầm của Bắc Kinh. Hiện nay, từ “bừa bãi” [cockup] giúp ta hiểu dễ dàng các động thái của Trung Quốc trong Biển Đông hơn là hai chữ “âm mưu”.
Bill Hayton là tác giả cuốn The South China Sea: the struggle for power in Asia [Biển Đông: cuộc tranh giành quyền lực tại châu Á] sắp được Yale University Press xuất bản.
B. H.
Dịch giả gửi BVN.

Đứa con bị hất hủi

NVP tại NVP - 21 giờ trước
*Đứa con bị hất hủi* Có lẽ ít ai dừng lại một chút và suy nghĩ thử bao nhiêu phần trăm vật dụng và dịch vụ chúng ta sử dụng hàng ngày do doanh nghiệp tư nhân trong nước sản xuất hay cung cấp. Sáng sớm thức dậy, người ta dùng bàn chải đánh răng, kem đánh răng, xà phòng, dầu gội đầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Họ dùng điện thoại di động hay máy tính xách tay của nước ngoài sản xuất để đọc tin tức, xem tin trên chiếc tivi cũng mang nhãn hiệu nước ngoài. Đa phần đi làm bằng chiếc xe gắn máy cũng của doanh nghiệp FDI. Người phụ nữ nội trợ ở nhà cũng giặt đồ bằng chiếc m... thêm »

Việt-Mỹ: Vũ khí đổi lại cải cách?

Nguyễn Quang Lập tại Quê Choa - Blog Que Choa của Bọ Lập 2014 - 2 giờ trước
*Luật sư Vũ Đức Khanh/*BBC *Ảnh bên:* *Quan hệ Việt-Mỹ đã được nâng lên đối tác toàn diện hồi tháng Bảy năm ngoái.* Những ngày gần đây quan hệ Việt-Mỹ cũng nóng dần theo hàn thử biểu của Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Dường như hai quốc gia “cựu thù” đang cố gia tốc trong việc nâng cấp quan hệ song phương thông qua đàm phán và vận động hành lang để Hoa Kỳ sớm hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Động thái này được các nhà quan sát đánh giá như một chỉ dấu quan trọng trong phát triển quan hệ Mỹ-Việt, nhưng không phải là không có hậu quả. Tin từ Hoa Thịnh Đốn cho biết có nh... thêm »

Thân phận con người trong xã hội Việt Nam hiện nay (1)

Chia sẻ bài viết này
Bauxite Việt Nam: Bức thư của một người mẹ viết trước khi tự tử vì quá nghèo mà mình sau nhiều năm vất vả cực nhọc mang lấy chứng bệnh thần kinh, mỗi ngày tiêu đến 140 nghìn đồng - đúng bằng tiền chồng làm ra để nuôi con ăn học. Một người mẹ nhất quyết chết vì không muốn 3 con trở thành những trẻ thất học do gánh nặng bệnh tật của mình, tương lai gần hay xa có thể dẫn đến tai họa cho xã hội. Những dòng thư trong vắt thiện lương cào xé lương tâm chúng ta, bắt ta nhìn qua đó như một tấm gương soi để thấy trên mặt mình có chỗ nào bất thiện hay không, mình có đáng sống hay không đáng sống trên đời, tranh mất sự sống của con người này và nhiều người thiện lương khác. Tấm gương không chỉ soi tỏ gương mặt của một mình ta mà soi luôn cả một xã hội lổn nhổn xung quanh ta, hiện hình lên những vị tai to mặt lớn, ăn bẫm và ăn tạp từ miếng to đến miếng nhỏ, từ việc in một mớ tiền polymer bên Úc, vay một khoản ODA bên Nhật, cho đến chiếm một khoảnh đất của dân Dương Nội, cướp một đầm thả cá tự đắp đập be bờ làm lấy của vợ chồng con cái anh cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn Hải Phòng... Các vị quan cộng sản suốt ngày chỉ ăn là ăn, hễ nghe lũ xâm lược rục rịch ở Biển Đông là rụt ngay cổ lại, thử hỏi có lúc nào các vị thử tính đếm xem bao nhiêu người dân Việt đã thiệt mạng, đã tự vẫn vì những cái miệng há to của các vị và con cái các vị hay không? Nhiều lắm lắm, tính ra không xuể đấy. Chính những cái miệng ấy chứ không phải cái gì khác chúng đã phủ định hết mọi thứ ngôn xưng đẹp đẽ về một thể chế cộng sản đến hồi rệu rã sau hơn 60 năm tồn tại đầu họng súng mà các vị đang cố sức níu giữ. Và dù báo chí có tô son trát phấn cho một thế hệ “thái tử đảng” đang ngấp nghé thay chiếc ghế của các vị – toàn những gương mặt nhờ bơ sữa làm cho đẹp đẽ thông minh, những Nguyễn Thanh... này, Lê Trương... kia, Tô Linh... nọ, v.v. – thì trong con mắt dân cùng chúng tôi, đó cũng chỉ là ủy viên dự bị của những cái miệng há to đã đớp đến mỏi răng, chiếm phần sống của quá nhiều người, nay phải để cho con cháu trèo lên ghế đớp tiếp, thế thôi, họ chẳng làm nên cơm cháo gì, hay giúp cho xã hội bớt đi những người tự vẫn được đâu.
Chị Mỹ Nhân ơi, nhìn ảnh chị và đọc tên chị sao mà gợi quá nhiều trắc ẩn, Mỹ nhân tự cổ như danh tướng / Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu. Chị là một người quyết liệt chết để cho sự sống được nảy mầm, cái chết ấy sẽ không bao giờ uổng phí. Nhưng chị chết mà không hề biết oán hận những ai, những kẻ nào thực chất là nguyên nhân sâu xa gây nên cái chết của mình, đó mới là một cái chết vị tha có sức cứu rỗi hết thảy những ai đang sống, trừ một số ít những kẻ trơ lỳ mà ta thừa biết là ai rồi. Chị gửi lời xin ông bí thư đảng ủy xã An Xuyên và chính quyền Ấp 5 cho gia đình mình được “lên” diện nghèo để 3 đứa con nhờ vào cái “sổ nghèo” mà được vay tiền ngân hàng đóng học phí khỏi phải bỏ học. Đọc lá thư của chị bằng nước mắt, chúng tôi muốn mượn câu thơ của Cao Bá Quát thét lên một tiếng vào bản mặt của cái thể chế này: “Ước gì có một cơn dông bão quét sạch mọi nhơ bẩn để sau một đêm sáng dậy thấy non sông đổi thay tận gốc” (Phong vũ giang sơn tận cải quan – Lập xuân hậu nhất nhật tân tình).

Thắt lòng chuyện mẹ chết để lấy tiền phúng viếng cho con học

Sau một tháng toan tính kỹ lưỡng, chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 38 tuổi, ngụ ấp 5, xã An Xuyên, TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau quyết định… chết. Chị chọn quyên sinh là giải pháp cuối cùng với hy vọng kiếm được ít tiền phúng điếu và gia đình được cấp sổ hộ nghèo. Đau đớn đến mức trong lá thư để lại, chị còn nhắn chồng đi xin hòm về liệm, dành tiền đóng học cho con.

Di ảnh chị Nhân.
Nghẹn uất xót thương
Chiều 24/4/2013, xứ An Xuyên bàng hoàng, thảng thốt bởi cái tin chị Nhân treo cổ chết.
Trước khi thắt cổ chết một tháng, chị đã nói với chồng, với con, với nhiều người hàng xóm về kế hoạch chết của mình. Chị khẳng định với chồng là chỉ còn một con đường duy nhất duy trì việc học cho các con. Đó là chị phải chết đi để mọi người đến phúng viếng mới có tiền trang trải cho các con học, giảm gánh nặng cho chồng, lấy linh hồn phù hộ cho chồng con… trúng số độc đắc.
Người chồng đau khổ nhưng bất lực trước ý chí sắt son của người vợ.
Trong suốt hai ngày đám tang của chị Nhân, người ta không nghe anh Bảo trách vợ một tiếng nào. Hơn ai hết, anh là người thấu hiểu tấm lòng của vợ. Anh nói trong nước mắt: “Vợ tôi đã cố gắng đến hơi sức cuối cùng”.
Hơn 20 năm làm vợ chồng với nhau, anh Bảo chưa bao giờ thấy vợ mình đáng trách. Ngược lại, anh luôn cảm phục tấm lòng và nghị lực của vợ.
Chị làm lụng đến tối tăm mặt mũi, không từ công việc gì miễn kiếm được tiền. Cả những công việc nặng nhọc tưởng chỉ đàn ông mới đảm đương nổi, chị cũng không nề hà. Đến khi bị bệnh tật hành hạ, chị vẫn cố gắng đi làm, không dám chữa trị vì tiền kiếm được còn phải để đóng học cho con.
Người phụ nữ nghị lực "đã gõ mọi cánh cửa"
Chị còn được xóm làng ngợi khen về tính đảm đang tháo vát hơn người. Chị chưa bao giờ bỏ qua một cơ hội kiếm tiền chính đáng. Nghe nói Nhà nước có chính sách cho sinh viên, học sinh vay tiền đi học, chị đích thân đi tìm hiểu và làm thủ tục xin vay. Người ta trả lời phải là hộ nghèo, hoặc hộ cận nghèo mới được cho vay. Chị về hỏi chính quyền địa phương xin được xét cấp sổ hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Bà Nguyễn Thị Nhu, Chi hội trưởng Cựu chiến binh ấp 5, xã An Xuyên kể: “Ngày 18/11/2012, khi họp dân ấp nhân ngày đại đoàn kết và xét chọn hộ nghèo, cận nghèo, Mỹ Nhân có đến dự. Tôi nhớ rất rõ lời nói của nó hôm đó. Nó nói “hoàn cảnh tôi quá khó khăn, xin được cấp sổ hộ nghèo để vay tiền cho các con ăn học”. Khi đó, Trưởng ấp ghi nhận nhưng chỉ hứa là sẽ xem xét sau, vì đã qua đợt xét hộ nghèo”.
Chị cũng đã tìm hiểu ra và làm thủ tục cho con trai nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với sinh viên học ngành hóa chất độc hại. Chị cũng đã tranh thủ góp hụi, vay tiền từ Hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, thậm chí vay "nóng" bên ngoài.
Anh Từ Văn Nguyễn, công an ấp 5, kể thêm: “Cách đây một tháng, chị Nhân đi kêu một bà để bán nhà và đất đang ở. Bà này trả lời là để bàn lại với người thân, chứ đất đai đâu phải nói mua là mua liền. Chị Nhân năn nỉ bán trả chậm, 2 triệu một tháng cũng được để có tiền đóng học phí cho các con. Bà này không chịu, chị Nhân nói nếu không chịu thì vài bữa nữa đi đám ma của tôi”.
Trước khi thắt cổ chết 3 ngày, chị Nhân hay tin có ông Trần Đại Đoàn, một người bà con mới về làm bí thư xã An Xuyên. Chị lập tức lên xã gặp ông Đoàn để xin được xét cấp sổ hộ nghèo. Ông Đoàn ghi nhận và hứa sẽ xem xét để cấp sổ hộ nghèo cho chị khi đến đợt xét tới đây. Đến lúc chị qua đời, anh Bảo vẫn chưa hay biết việc chị đã lên xã xin anh Đoàn cái sổ hộ nghèo.
Tâm thư tuyệt mệnh
Bên cạnh xác chết của chị, người ta đã tìm thấy những bức tâm thư tuyệt mệnh.
“Anh Bình! Hoàn cảnh em quá khổ. Em chết, anh chôn em cặp Hà (em trai chị – PV), trên đất của cha mẹ. Em chết, anh thỉnh bàn thờ mẹ về nhà anh thờ. Mong anh đừng làm khó em, để em yên thân nằm cạnh Hà. Gia đình mình sống quá khổ, từ đời của cha mẹ đến đời con, không có ý nghĩa gì hết”.

Cha con anh Bảo đau thương trước cái chết của chị Nhân.
Bà Nguyễn Thị Tiến, Chi hội trưởng phụ nữ ấp 5, xã An Xuyên, TP Cà Mau bức xúc: “Suy cho cùng, cái chết của chị Nhân có nguyên nhân từ áp lực tiền học phí và tiền trị bệnh. Nếu như có tiền để chị đóng học phí cho các con đi học thì chị đã không chết như vậy.
Ngành giáo dục nên xem lại những cuộc cải cách của mình, chứ thực tế rất rõ là càng về sau này, việc học hành càng xa vời với người dân, cả người dân được cho là không nghèo.
Sau cái chết của chị Nhân, chúng tôi bị chỉ trách lớn. Xin hãy nghĩ lại cho chúng tôi. Với mức phụ cấp 400 - 600 ngàn đồng/tháng/cán bộ ấp, thử hỏi làm sao chúng tôi sâu, sát đến từng hộ dân một. Chúng tôi còn phải kiếm sống. Chúng tôi là những người hưởng lợi thấp nhất trong hệ thống chính quyền, nhưng khi có sự cố nào xảy ra, chúng tôi là những người lãnh đủ”.
Phần gửi cho chồng, chị Nhân viết: “Anh Bảo! Tiền em bỏ trong túi quần tây, trong tủ áo. Quần tây màu đỏ”.
Bức thư thứ hai dài đến bốn trang giấy học trò, chữ viết nguệch ngoạc, không chấm phết, ý tứ đứt quãng, lủng củng. Nhưng khi đọc lên, ai cũng có cảm giác là chị Nhân đang nói với mình. Bởi những điều đó chị đã nói rồi, nói với chồng, với con, với nhiều người hàng xóm, và nói từ cả tháng qua.

Thư tuyệt mệnh của người mẹ tự vẫn. (http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/545565/dau-don-thu-tuyet-menh-cua-nguoi-me-tu-van.html)
Chúng tôi tạm rút nội dung bức thư thứ hai của chị theo ý chính như sau:
“Tạm biệt chồng con!
Anh! Trong hoàn cảnh gia đình mình quá khổ, em không sống nổi với anh và các con. Từ một tháng qua, em bệnh, nằm xuống nhưng không ngủ được. Em nhớ đến nợ nần, đến tiền học phí của các con, đến sự khổ cực cả đời của anh. Em đã cố gắng lắm rồi, em chạy tiền bằng mọi cách để trị bệnh, để lo đóng học phí cho các con, nhưng có ai cho mình mượn, mình vay đâu.
Em khổ lắm. Em không còn lối thoát. Em biết chết trong lúc này, bỏ lại anh và 3 đứa con ngoan, hiền, học giỏi của chúng ta là em không đúng. Anh Bảo! em thương anh nhiều lắm. Anh sống với em cả đời cực khổ, chưa có bao giờ anh được sung sướng.
Các con, Bằng, Tâm, Ngân. Các con đừng trách mẹ, mẹ khổ nhiều lắm. Mẹ chạy tiền cho các con ăn học, bây giờ nợ nhiều lắm. Tiền hụi chết mỗi tháng phải đóng cho dì Ánh 1 triệu đồng. Mẹ đã đi van xin được cấp sổ hộ nghèo để mẹ vay tiền đóng học phí cho các con. Nhưng không ai cho gia đình mình nghèo hết. Mẹ chết để giảm gánh nặng cho cha con, để phù hộ cho cha con các con được trúng số độc đắc, để chính quyền thấy nhà mình thực sự khổ rồi cấp sổ hộ nghèo, vay tiền đóng học phí cho các con.
Xin các cấp chính quyền ấp 5 soi xét cho hoàn cảnh quá khổ, không lối thoát của chúng tôi mà xét cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi được sống những ngày tháng còn lại trên đời.
Anh Bảo! Anh ra Hội chữ thập đỏ xin hòm liệm em, đừng mua tốn kém lắm, dành tiền lo cho các con mình ăn học nghe anh.
Anh. Em thương anh nhiều lắm! Các con hãy gắng vươn lên, học tập đổi đời, đừng để cha con phải khổ thêm. Vì mẹ con mình mà cha các con phải khổ cả đời rồi…
Mỹ Nhân tạm biệt!".
Đám tang của chị được bà con An Xuyên phúng viếng trên 40 triệu đồng, một số tiền khá lớn so với những đám tang khác tại địa phương.
Gia đình chị Nhân không thuộc chuẩn xét hộ nghèo, cận nghèo
Ông Võ Văn Nhu, Bí thư chi bộ ấp 5, xã An Xuyên: “Việc không cấp sổ hộ nghèo cho gia đình chị Nhân là do hoàn cảnh nhà chị chưa đến chuẩn để xét.
Theo qui định hiện hành, hộ nào có mức thu nhập bình quân đầu người từ 400 ngàn đồng/người/tháng trở xuống thì là hộ nghèo. Từ 401 ngàn đồng – 520 ngàn đồng xét hộ cận nghèo. Trong khi chỉ tính riêng thu nhập từ công việc thợ hồ của anh Bảo đã là 3 triệu đồng/tháng, chia cho 5 nhân khẩu thì được 600 ngàn đồng/người/tháng.
Tuy nhiên, cái chết của chị Nhân khiến chúng tôi rất đau xót và nghiêm túc rút kinh nghiệm vì chưa thực sự sâu, sát hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của dân, để đề xuất cộng đồng chung tay giúp đỡ.
Qua đây, chúng tôi cũng xin đề xuất với Nhà nước hãy điều chỉnh mức chuẩn xét hộ nghèo lên. Thực tế cho thấy, với vật giá hiện nay, để sống gói ghém, mỗi khẩu cần có ít nhất là một triệu đồng. Nếu có con đi học hành thì không thể nào đảm bảo được”.
Theo Xa lộ Pháp luật
Nguồn: baophapluat.vn

  • Có thể nới lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN vào tháng 9 (08/08)
  • TTO - Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ John McCain đã nói như vậy khi trả lời báo chí nhân chuyến công du Việt Nam từ ngày 7 đến 10-8.
  • Hoa Kỳ sẵn sàng đương đầu với những thách thức mới, những cách nghĩ và việc làm mới. Chúng tôi sẵn sàng đi đến hoàn tất Hiệp định xuyên Thái Bình Dương TPP, là một hiệp định có tiêu chuẩn cao, cùng Việt Nam với tư cách đối tác toàn diện của chúng tôi. Sẵn sàng làm việc với Việt Nam trong khuôn khổ TPP để Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn của Hoa Kỳ và được công nhận nền kinh tế thị trường.
  • Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự, cũng như gia tăng chuyến thăm tàu quân sự đến Việt Nam theo mức độ mà Việt Nam chấp nhận được. Chúng tôi không đặt vấn đề thuê căn cứ quân sự ở Việt Nam. Chúng tôi sẽ thực hiện hợp tác quân sự cả tăng cường chuyến thăm của tàu quân sự thông qua thỏa thuận việc tiếp cận các cơ sở này giống như chúng tôi thỏa thuận với các nước khác.
  • Chúng tôi sẵn sàng gia tăng trợ giúp về an ninh, giúp Việt Nam đảm bảo hợp thức chủ quyền của mình cũng như bảo đảm bảo vệ các quyền của Việt Nam. XEM TẠI ĐÂY !

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Bạch hoá Hội nghị Thành Đô?

Lê Diễn Đức
Hoang mang, lúng túng trước sự tan rã nhanh chóng của khối cộng sản ở châu Âu, lo sợ khả năng mất kiểm soát và độc quyền lãnh đạo, vào đầu tháng 9 năm 1990, lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đã xúc tiến cuộc gặp gỡ với lãnh đạo Trung Nam Hải tại Thành Đô, để bình thường hoá quan hệ sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1979.
 
Những thoả thuận của cuộc hội nghị này là nền móng cho mọi mối quan hệ hợp tác giữa CHXHCN Việt Nam và Trung Quốc. Mối quan hệ hết sức bất bình đẳng, thể hiện chính sách hèn mạt, nhu nhược của nhà cầm quyền Việt Nam.
 
Trên đất liền, được ưu đãi đặc biệt, Trung Quốc thực hiện cuộc xâm thực khống chế Việt Nam, không mất một viên đạn nào. Ngoài biển, Trung Quốc băt đầu từ việc xua đuổi bắt giữ ngư dân, cấm bắt cá, đến cắt cáp tàu của Việt Nam và cuối cùng là đưa giàn khoan vào khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
 
Hiện đang phổ biến lá thư ngỏ của ông Lê Văn Mật, Thiếu tướng, cựu phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 2 và Tư lệnh Mặt trận 1979-1984 (Hà Giang), nêu thắc mắc và kiến nghị Đảng Cộng sản Việt Nam công khai nội dung thoả thuận của Hội nghị thành Đô ngày 3-4 tháng 9 năm 1990.
 
Lấy nguồn từ báo chí Trung Quốc, bức thư có đoạn viết:
 
"Chúng tôi cho rằng nguyên nhân sâu xa là ở Thỏa hiệp Thành Đô ngày 4/9/1990 của một số vị lãnh đạo. Chúng tôi chưa rõ thực hư thế nào mà chỉ biết sau này những hiện tượng tiêu cực xảy ra đã thể hiện nội dung của bản Thỏa hiệp đó.
 
"Xin trích một đoạn Thỏa hiệp Thành Đô:  “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….
 
"Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc". [1]
 
Ông Nguyễn Trung, một chuyên viên nghiên cứu, cựu đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, viết: [3]
 
"Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau Hội nghị Thành Đô cũng đã trở thành một mối quan hệ vượt mức bình thường với những mỹ từ kèm theo như “tình hữu nghị giữa hai nước xã hội chủ nghĩa anh em”, rồi lại còn “16 chữ vàng”… Những yếu tố bất bình thường này cũng đang là những nhân tố lấn át và có nguy cơ làm cho những nguyên tắc bình thường giữa hai quốc gia trở thành thứ yếu và phần thua thiệt tất nhiên bao giờ cũng thuộc về “đàn em” mà điều xấu nhất nếu xảy ra rất có thể sẽ là “Hoa quân nhập Việt”.
 
Vì vậy, với một sự kiện sẽ đi vào lịch sử dân tộc như Hội nghị Thành Đô, thay vì nói đó là Hội nghị bình thường hóa quan hệ Việt – Trung như cách nói từ trước đến nay thì phải nói rằng đó là sự kiện mở ra một sự bất bình thường trong quan hệ giữa hai nước thì đúng hơn".
 
Vào cùng thời gian với thiếu tướng Lê Duy Mật, có một lá thư khác của cựu đại tá an ninh Nguyễn Đăng Quang, được đăng trên Blog Nguyễn Tường Thụy. [2]
 
Đưa ra một số hiện tượng xâm thực mềm nguy hiểm, đẩy nền kinh tế Việt Nam vào sự phụ thuộc Bắc Kinh nghiêm trọng, như cho thuê hàng trăm ngàn rừng đầu nguồn 50 năm, khai thác bauxite Tây Nguyên, hơn 90% các dự án EPC lọt vào tay thầu Trung Quốc, v.v..., bức thư nhấn mạnh:
 
"Xung quanh Hội nghị thượng đỉnh và các thỏa thuận mà Việt Nam đã ký với Trung Quốc  ở Thành Đô có nhiều phân tích, đánh giá, nhận định, thông tin trái chiều, thậm chí cả những đồn thổi nguy hiểm, bất lợi về mặt dư luận... làm người dân hoang mang, bán tín bán nghi, không biết đâu là hư, đâu là thực! Mọi hiện tượng trên sẽ chấm dứt một khi Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối quan hệ Việt-Trung, đặc biệt là các thỏa thuận mà lãnh đạo ta đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô".
 
Cho rằng, "Việt Nam gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc" như là một khu vực tự trị giống như Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... theo tôi chỉ là tin đồn đoán, nếu có trích từ nguồn báo chí Trung Quốc thì cũng là những ngôn ngữ điêu ngoa, phóng đại.
 
Trung Quốc thực tâm muốn biến Việt Nam thành một nước chư hầu, hoàn toàn lệ thuộc về kinh tế và cả chính trị, chứ không thể nào biến Việt Nam thành một Tây Tạng hay Nội Mông được.
 
Cho dù triều đại cộng sản có bán nước cầu vinh, thì tinh thần chống ngoại xâm phương Bắc từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam, vẫn nung nấu. Họ sẽ dễ dàng thao túng, điều khiển hơn khi có một tập đoàn thái thú ngoan ngoãn. Trung Quốc chẳng dại dột đối diện với sự chống đối quyết liệt nếu biến mình thành kẻ cai trị trực tiếp. Lịch sử hai nước đã chứng minh điều này. Qua một ngàn năm Bắc thuộc, Trung Quốc đã không đồng hoá nổi dân tộc Việt và cuộc chiến đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng của Ngô Quyền, chính thức kết thúc ách đô hộ hơn một thiên niên kỉ, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam.
 
Song song, dù ĐCSVN áp dụng chính sách phò Trung Quốc để duy trì độc quyền cai trị,  nhưng trong giới lãnh đạo không phải không có mâu thuẫn, chia rẽ. Vẫn tồn tại xu hướng hợp tác với Mỹ, Nhật Bản và các nước khác trong khu vực để kiềm chế Trung Quốc, cho dù ảnh hưởng của phe thân Trung Quốc đang mạnh hơn nhiều.
 
Mang giàn khoan HD 981 vào vùng kinh tế Việt Nam là một bước đi quan trọng của Trung Quốc trong việc thăm dò phản ứng của Việt Nam và quốc tế, nhưng cuối cùng Bắc Kinh đã cho rút sớm hơn dự định một tháng, là do trong lúc này chưa thể vì một giàn khoan mà có thể mất đứt cả nước CHXHCN Việt Nam.
 
Không thể bỗng dưng đánh mất một tập đoàn lãnh đạo dường như đang ngả hẳn về Trung Quốc. Không thể có đuợc ở bất cứ nơi nào những gì đang nắm trong tay như trên lãnh thổ Việt Nam. Không thể đánh mất một thị trường 100 triệu dân dễ dãi và thực dụng để tống khứ hàng hoá độc hại.
 
"Dục tất bất đạt", Trung Nam Hải không thể vì mộng bành trướng mà quá vội vã. Họ cần có thêm thời gian. Trước mắt vẫn tiếp tục tiến hành mạnh mẽ cuộc xâm thực trên đất liền. Việc Nguyễn Tấn Dũng đồng ý để Trung Quốc tiếp tục xây dựng sân bay quốc tế Quảng Ninh hay thi công đường cao tốc Đà Nẵng- Quảng Ngãi, chưa nói tới khu Formosa năm ở Hà Tĩnh cho thuê 70 năm, chứng tỏ chính sách xâm lược mềm và khuynh loát Việt Nam bằng kinh tế rất hiệu quả.
 
Thiết nghĩ chẳng bao giờ ĐCSVN bạch hoá nội dung Hội nghị Thành Đô, bởi vì chế độ cộng sản luôn đồng nghĩa với dối trá, bưng bít thông tin. Nhưng, dù có bạch hoá hay không cũng chẳng mấy quan trọng. Quan sát những gì mà họ làm với Trung Quốc và thẳng tay đàn áp mọi tư tuởng yêu nước chống Trung Quốc trong hơn hai thập niên qua, ta đã đủ hiểu được thực chất của những thoả thuận như thế nào.  
 
Không đến nỗi trở thành Tây Tạng, Nội Mông, nhưng Việt Nam đang và sẽ trở thành một cứ điểm quan trọng trong chính sách bành trướng của Trung Quốc. ĐCSVN thực sự  nối giáo cho giặc, đã và đang dẫm đạp lên lợi ích lâu dài và chủ quyền của dân tộc.
 
© Lê Diễn Đức
--------------------------------------------------------------------------------

PHẢI CÔNG BỐ CÁC THỎA THUẬN Ở THÀNH ĐÔ CHO NHÂN DÂN BIẾT

theo Bauxite Việt Nam

Nguyễn Đăng Quang          
clip_image002clip_image004
Cách đây 24 năm, ngày 3 và 4/9/1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) đã diễn ra cuộc họp thượng đỉnh giữa lãnh đạo Đảng Cộng sản và Nhà nước hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Tham dự cuộc gặp,  phía TQ, dẫn đầu là Giang Trạch Dân - TBT Đảng CSTQ, và Lý Bằng - Thủ tướng Quốc vụ viện nước CHND Trung Hoa. Dẫn đầu đoàn VN là Nguyễn Văn Linh - TBT Đảng CSVN và Đỗ Mười, lúc đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tức Thủ tướng Chính phủ) nước CHXHCN Việt Nam. Thành viên thứ ba của đoàn VN là Phạm Văn Đồng - Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tháp tùng đoàn VN đến Thành Đô có 3 cán bộ cấp cao là Hồng Hà - Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Hoàng Bích Sơn - Trưởng Ban đối ngoại Trung ương và Đinh Nho Liêm - Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Trên chuyên cơ đưa đoàn VN từ sân bay Nội Bài đi Thành Đô còn có cả Trương Đức Duy - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền TQ tại VN. Song điều đặc biệt đáng chú ý là Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch không có tên trong danh sách tham dự cuộc họp này.

Trong cuộc gặp thượng đỉnh này tại Thành Đô, hai bên đã ký kết một văn bản thỏa thuận gọi là "Kỷ yếu Hội nghị" để chính thức bình thường hóa quan hệ hai nước và cùng nhau thực hiện những thỏa thuận vừa đạt được giữa lãnh đạo hai Đảng và hai Nhà nước. Cuộc gặp thượng đỉnh này cũng như nội dung thỏa thuận của Hội nghị Thành Đô từ đó cho đến nay vẫn luôn nằm trong bí mật và cho đến tận hôm nay - mặc dù 24 năm đã qua - nó vẫn chưa được chính thức công bố cho nhân dân VN cũng như các nước liên quan và cộng đồng quốc tế được biết!                                   
          Hội nghị Thành Đô diễn ra trong bối cảnh quốc tế như thế nào?
Trước hết không thể không nói là cuộc thảm sát Thiên An Môn tại Bắc Kinh ngày 4/6/1989. Gần 2 tháng trước đó, từ giữa tháng 4/1989, hàng ngày có hàng chục ngàn, có hôm lên đến cả trăm ngàn sinh viên và thanh niên thay nhau tổ chức biểu tình ngồi và nằm để chiếm quảng trường Thiên An Môn. Họ giương cao các khẩu hiệu chống tham nhũng, ủng hộ cải cách và đòi tự do, dân chủ. Với bản chất khát máu và phi nhân tính, thay vì đối thoại để có một giải pháp ôn hòa, nhà cầm quyền TQ đã sử dụng lực lượng quân đội với hàng trăm xe tăng mờ sáng ngày 4/6/1989 tràn vào quảng trường Thiên An Môn tàn sát dã man người biểu tình trong tay không một tấc sắt và là đồng bào ruột thịt của mình! Xe tăng nghiền nát hàng ngàn thanh niên sinh viên, máu chảy lênh láng khắp quảng trường! Cả thế giới bàng hoàng! Mỹ và phương Tây cùng các nước tiến bộ trên toàn thế giới đồng thanh lên án, tố cáo, trừng phạt và cô lập Trung Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản Trung Hoa kể từ khi thành lập (1949) đến nay chưa khi nào lại bị thế giới nguyền rủa và cô lập như lúc này. Đây là vết nhơ ngàn đời khó rửa đối với chính quyền cộng sản Trung Quốc!
Ngoài ra, một sự kiện lịch sử không thể không nói, đó là hàng loạt các ĐCS và hệ thống XHCN nối tiếp nhau tan rã và sụp đổ ở Đông Âu. Bắt đầu từ cuối năm 1989 cho đến đầu năm 1990, chế độ XHCN ở 6 nước cộng sản Đông Âu lần lượt và dồn dập sụp đổ: Đầu tiên là Ba Lan (6/1989), tiếp đến là Hungary (10/1989), rồi đến Đông Đức (11/1989), tiếp theo là Tiệp Khắc (12/1989), sau đó là Rumani (12/1989), và tiếp đến là Bulgary(1/1990). Muộn hơn là Albany (3/1991), rồi đến Nam Tư (6/1991) và cuối cùng là Liên bang Cộng hòa XHCN Xô viết tức Liên Xô (19/8/1991). Chỉ trước đấy không lâu, vào đầu tháng 10/1989, lãnh đạo các ĐCS và các nước XHCN “anh em” còn tụ tập nhau ở Berlin để cùng nhau tham dự Lễ kỷ niệm 40 năm Quốc khánh CHDC Đức (7/10/1989) và bàn việc bảo vệ, giữ vững chế độ XHCN trên thế giới. Đoàn Việt Nam do TBT Nguyễn Văn Linh dẫn đầu sang Berlin tham dự lễ kỷ niệm này, nhưng chỉ đúng một tháng sau khi về đến Hà Nội thì bức tường Berlin đổ sụp. Erich  Honecker - TBT Đảng kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước CHDC Đức - bị lật đổ. Còn lãnh tụ Nikolai Ceaucescu của Đảng và Nhà nước Rumani, sau khi dự lễ kỷ niệm 40 năm Quốc khánh CHDC Đức, khi trở về Bucarest ông còn kịp tổ chức "thành công" Đại hội lần thứ 14  Đảng Cộng sản Rumani (cuối tháng 11/1989) và tất nhiên ông được bầu lại làm TBT thêm một nhiệm kỳ 5 năm nữa! Nhưng chỉ một tháng sau - ngày 20/12/1989 - khi vừa chân ướt chân ráo về đến thủ đô Bucarest sau 2 ngày đi thăm chính thức nước Cộng hòa Hồi giáo Iran thì Ceaucescu bị truy bắt, cả 2 vợ chồng phải chạy trốn khỏi thủ đô và sau đó đều bị bắt và bị một tòa án quân sự tuyên tử hình về tội diệt chủng và tham nhũng, rồi cả hai nhanh chóng bị mang ra hành quyết vào rạng sáng ngày 25/12/1989. Theo cuốn hồi ký "Hồi ức và suy nghĩ" của nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ thì Nikolai Ceaucescu "là người trong thời gian ở Berlin xem ra tâm đầu ý hợp với TBT Nguyễn Văn Linh trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp XHCN thế giới đang lâm nguy". Nhiều nguồn tin khác còn nói chính trong lần gặp nhau ở Berlin này, hai vị lãnh đạo của Việt Nam và Rumani đã đồng ý là năm sau (1990) sẽ cùng đứng ra đồng tổ chức một cuộc Hội nghị toàn cầu các đảng cộng sản và công nhân nhằm xiết chặt đoàn kết và khẳng định xu thế tất thắng của Chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới! Những sự kiện dồn dập nói trên ở Đông Âu nối tiếp xảy ra chỉ trong vòng không đến một năm khiến TBT Nguyễn Văn Linh và Lãnh đạo Đảng VN bồn chồn và vô cùng lo lắng, đứng ngồi không yên!
          Nắm bắt được tâm trạng hoảng hốt, lo lắng của lãnh đạo Đảng và Nhà nước VN và biết chắc được lãnh đạo VN sẽ sẵn sàng nhân nhượng để khôi phục lại quan hệ với Đảng và Nhà nước với TQ nhằm có đồng minh và chỗ dựa trong việc bảo vệ Đảng và chế độ XHCN tại VN, Trung Nam Hải quyết định hành động! Đặng Tiểu Bình, Cố vấn tối cao kiêm Chủ tịch Quân ủy Trung ương ĐCSTQ - kẻ đã xua 600.000 quân  tràn qua 6 tỉnh biên giới phía Bắc để xâm lược nước ta 10 năm trước  (tháng 2/1979 ) - cùng các lãnh đạo chóp bu khác ở Trung Nam Hải nhận định đây là cơ hội quí hơn vàng để  thực hiện quỷ kế chia rẽ, lừa gạt và phân hóa nội bộ VN nhằm đưa Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước VN nằm trọn trong quỹ đạo phụ thuộc toàn diện vào Cộng sản Trung Quốc! Chúng đưa ra chiêu trò cực kỳ thâm hiểm là gợi ý tổ chức một cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa lãnh đạo hai Đảng và Nhà nước để cải thiện và bình thường hóa quan hệ Việt Nam -Trung Quốc nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và bảo vệ CNXH ở mỗi nước! Cơ quan được giao thực hiện quỷ kế này không ai khác chính là Hoa Nam Tình báo. Cơ quan tình báo này thừa biết, nếu thông qua kênh ngoại giao chính thức là Bộ Ngoại giao thì chắc chắn quỷ kế này sẽ bị bại lộ và nhiều khả năng sẽ bất thành, bởi vì ở Bộ Ngoại giao có Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Thứ trưởng Trần Quang Cơ và Trợ lý Ngoại trưởng Vũ Khoan là 3 nhà lãnh đạo rất am hiểu và luôn cảnh giác cao độ với mọi âm mưu, thủ đoạn của Trung Quốc. Do vậy phải tránh BNG và phải đi đường vòng. Đường vòng này đã được Hoa Nam Tình báo xác định từ trước là  Ban Đối ngoại Trung ương và Bộ Quốc phòng!
Trương Đức Duy (sinh năm 1930 tại Quảng Đông, là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền TQ tại VN từ tháng 4/1989 đến 3/1993, nói tiếng Việt giỏi như người Việt, người vốn không xa lạ gì với cơ quan an ninh VN) được giao trực tiếp thực hiện kế hoạch này. Chỉ chưa đầy hai tháng sau khi được cử giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Việt Nam, Trương Đức Duy đã thực hiện một bước đi ngoạn mục là qua mặt và phớt lờ Bộ Ngoại giao, trực tiếp liên hệ và tiếp xúc với hai cơ quan nói trên của VN là nơi vốn Trương đã có sẵn các mối quan hệ đặc biệt từ khi ông ta còn là phiên dịch kiêm Bí thư thứ ba rồi thứ nhất Sứ quán TQ ở Hà nội 20 năm về trước. Trương Đức Duy đã được sắp xếp dễ dàng gặp Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh 3 lần trong vòng chưa đầy 3 tháng (trưa 6/6, chiều 20/8 và sáng 29/8/1989), gặp TBT Nguyễn Văn Linh 3 lần (ngày 5/6, tối 22/8 và chiều 29/8/1989). Những lần Trương đến Bộ Quốc phòng hay Ban Đối ngoại Trung ương gặp lãnh đạo VN, xe Trương thường không cắm cờ và đi vào cửa phụ, Trương không mang theo phiên dịch và thư ký ghi chép và ông ta cũng yêu cầu phía ta không bố trí phiên dịch và thư ký, những cuộc gặp đó chỉ có 2 người: 1 chủ và 1 khách!
Đương nhiên, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch không được biết trước những cuộc gặp này, mà chỉ được thông báo sau khi đã diễn ra, thậm chí có những cuộc gặp ông còn không được cho biết, mặc dù ông đang là Uỷ viên Bộ chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Phó Thủ tướng) kiêm Bộ trưởng Ngoại giao!  
Nhớ lại, vào một tối đầu Thu 1987 tại New York, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch có nói riêng với người viết bài này khi ông dẫn đầu phái đoàn CHXHCN Việt Nam sang dự Khóa họp thứ 42 Đại hội đồng LHQ: "Họ công khai ra điều kiện cho lãnh đạo ta là "Nếu VN thực tâm muốn cải thiện và bình thường hóa quan hệ với TQ thì việc đầu tiên VN phải làm là loại bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch".  Vâng, có lẽ tất cả các cán bộ đối ngoại ở BNG hoặc ở các cơ quan đại diện ngoại giao VN ở nước ngoài trong khoảng thời kỳ 1987-1990 đều được biết đòi hỏi cực kỳ ngang ngược và trịch thượng này của TQ! Nhiều cán bộ trung cao cấp của Bộ Ngoại giao hồi đó còn trao đổi ở chốn riêng tư với nhau: "Lần này thủ trưởng của chúng ta có lẽ khó thoát khỏi là "vật tế thần!".  Tôi thật không ngờ và rất buồn là ngay sau Hội nghị Thành Đô, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch - "kiến trúc sư của nền ngoại giao Việt Nam" - một chiến lược gia tài ba, một nhà lãnh đạo có kiến thức uyên thâm và tầm nhìn xa trông rộng, một nhà ngoại giao sắc sảo và quả quyết, người mà nhiều chính khách phương Tây rất khâm phục và kính nể, lại phải sớm rời khỏi mọi chức vụ (Ủy viên BCT, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao) và bị loại khỏi danh sách đề cử vào BCHTW khóa VII! Chỉ trước đấy không lâu, ngay đầu năm 1990, ông còn được dự kiến làm Thủ tướng nếu ông Võ Văn Kiệt lên làm Tổng Bí thư ở Đại hội VII.
      Việc ông bị loại bỏ khỏi tất cả các chức vụ lãnh đạo Đảng và Nhà nước có phải là một trong các điều kiện mà TQ đã buộc ta phải chấp nhận ở Hội nghị Thành Đô hay không, là một điều không khó để chứng minh. Còn về câu nói  "Thế là một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!" có phải là ý kiến nhận định và đánh giá về kết quả Hội nghị Thành Đô của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch hay không? Ông nói câu này khi nào, với ai và trong bối cảnh nào thì chưa thấy có nguồn tin nào khẳng định. Khi phải thôi chức Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao ở tuổi tròn "thất thập" (1991), tuy bị sốc, nhưng sức khỏe về trí lực và thể lực của ông vẫn còn rất tốt. Ông vẫn được Bộ Chính trị giao công tác mới là chủ trì tổng kết công tác ngoại giao, nghiên cứu kinh tế thế giới và chiến lược đối ngoại cho đến khi ông mất (năm 1998). Chính trong thời gian này ông đã hoàn chỉnh cuốn hồi ký mà ông đã khởi bút viết ngay sau khi Hội nghị Paris về VN kết thúc (1973). Cuốn hồi ký này nói về  những năm tháng vinh quang, những khoảnh khắc bực tức, nóng giận và cay đắng trong cuộc đời 60 năm hoạt động cách mạng trong đó có 44 năm làm công tác ngoại giao của ông. Chắc chắn là nhiều bí mật đối ngoại của Nhà nước cũng như của riêng ông sẽ được "bật mí" một khi cuốn hồi ký này được công bố!          
Gần 1/4 thế kỷ đã trôi qua kể từ Hội nghị Thành Đô, nhiều thành viên đoàn VN tham dự hội nghị này không còn nữa, nhưng hậu quả để lại của cuộc gặp này là khôn lường, gây ra những thiệt hại to lớn và nguy hiểm cho đất nước và nhân dân ta ở hầu hết các lĩnh vực: từ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, văn hóa - giáo dục, chủ quyền đất nước, chính trị nội bộ đến vấn đề an ninh quốc gia trên phạm vi toàn lãnh thổ, từ biên giới phía Bắc cho đến các tỉnh miền Tây Nam bộ, từ biển Đông vào đến các tỉnh ven biển và giáp với biên giới Lào và Campuchia, và đặc biệt là vùng Tây Nguyên chiến lược. Không thể thống kê hết những vấn đề nói trên, chỉ xin đề cập đến một vài sự việc nổi cộm sau:
1- Từ sau Hội nghị Thành Đô, cuộc chiến tranh xâm lược của TQ ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta (17/2/1979) không được nhắc đến nữa, thậm chí những hoạt động của người dân tưởng niệm và vinh danh các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến này hoặc các cuộc biểu tình yêu nước chống TQ xâm phạm biển đảo và sát hại ngư dân ta đều bị ngăn cấm và đàn áp.
Hơn 35 năm đã trôi qua, tại sao cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chống xâm lược bành trướng phương Bắc này cũng như việc TQ dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (1974) và đảo Gạc Ma của ta ở Trường Sa (1988)  không được tổng kết và đưa vào lịch sử và sách giáo khoa để giáo dục lòng yêu nước cho học sinh, sinh viên và thanh niên ta?
            2- Tại sao ta cho phép hoặc không ngăn chặn việc TQ thuê hàng trăm ngàn héc ta rừng đầu nguồn ở các tỉnh biên giới chiến lược phía Bắc với thời hạn lâu dài 50-70 năm?
            3- Một khu vực có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, rất nhạy cảm về mặt an ninh - quốc phòng là Tây Nguyên (Ai kiểm soát Tây Nguyên thì có thể khống chế được toàn bộ bán đảo Đông Dương!) thì TQ lại dễ dàng được phép đưa hàng ngàn công nhân vào đây để thực hiện dự án bauxite đầy nghi ngờ và tranh cãi không những về an ninh - quốc phòng mà cả về hậu quả sinh thái - môi trường, cũng như về hiệu quả kinh tế - xã hội, mặc dù có hàng ngàn cựu cán bộ lãnh đạo, nhân sĩ trí thức và các nhà khoa học lên tiếng kiến nghị Bộ Chính trị, Quốc hội và Nhà nước dừng dự án này!  
            4- Tại sao các công ty TQ lại trúng đến 80-90% các gói thầu trọn gói EPC (thiết kế - mua sắm - xây dựng) trong các dự án về KT-XH, đặc biệt là các dự án nhiệt điện, và tại sao ta chấp nhận hàng chục ngàn lao động phổ thông TQ (có phép và không phép) vào thực hiện các dự án này? Tại sao ta lại để cho thương nhân và các doanh nghiệp TQ tự tung tự tác trên khắp lãnh thổ của ta, lừa đảo nông dân ta, lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế đất nước ta một cách dễ dàng như chốn không người như vậy?             
            5- Gần đây TQ ngang ngược và trắng trợn hạ đặt giàn khoan Haiyang Shiyou 981 để khoan thăm dò dầu khí sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN mà ta lại không dám nhân cơ hội này kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như Philippines đã làm? Do ta chưa chuẩn bị kịp hồ sơ pháp lý hay vì một nguyên nhân nào khác? Trong vụ giàn khoan này TQ đã không chỉ chà đạp luật pháp và chủ quyền của VN mà còn vi phạm thô bạo Công ước Luật biển 1982 (UNCLOS) của LHQ. Dư luận rộng rãi trên toàn thế giới phản đối, lên án TQ và đồng tình, ủng hộ VN. Rất tiếc ta lại không tận dụng thời cơ và lợi thế này để vạch mặt bọn "vừa ăn cướp vừa la làng"! Trung Quốc không chỉ ngang ngược mà họ còn phi lý và trịch thượng nữa! Qua hãng thông tấn chính thức Tân Hoa Xã, họ đưa ra "4 yêu sách VN không được làm" trong đó họ đề cập xa gần và bóng gió đến thỏa thuận Thành Đô 1990!              
            - v.v.
         Xung quanh Hội nghị thượng đỉnh và các thỏa thuận mà VN đã ký với TQ ở Thành Đô có nhiều phân tích, đánh giá, nhận định, thông tin trái chiều, thậm chí cả những đồn thổi nguy hiểm, bất lợi về mặt dư luận... làm người dân hoang mang, bán tín bán nghi, không biết đâu là hư, đâu là thực! Mọi hiện tượng trên sẽ chấm dứt một khi Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối quan hệ Việt - Trung, đặc biệt là các thỏa thuận mà lãnh đạo ta đã ký với TQ ở Thành Đô. 
                Là chủ nhân ông của đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết về những vấn đề trọng đại của quốc gia, trong đó có sự thật về quan hệ VN - TQ trong những năm qua, đặc biệt là các thỏa thuận đã ký với TQ ở Hội nghị Thành Đô năm 1990. Hơn nữa,Điều 4 Hiến pháp 2013 đã ghi  rất rõ: "ĐCSVN... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội... Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình". Do vậy việc lãnh đạo Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối bang giao Việt - Trung và các thỏa thuận đã ký với TQ ở Thành Đô là một việc nên làm, cần làm và phải được làm vì điều này chỉ có lợi cho Nhân dân và Đất nước.
            Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI sẽ sớm nhóm họp Hội nghị Trung ương lần thứ 10 trong thời gian tới  để duyệt xét mối quan hệ VN - TQ và đưa ra các quyết sách liên quan. Nhân dân rất kỳ vọng một trong các quyết sách này là Đảng sẽ báo cáo cho toàn dân biết sự thực về mối quan hệ với TQ trong 1/4 thế kỷ qua trong đó có các thỏa thuận mà lãnh đạo Đảng ta đã ký với TQ ở Hội nghị Thành Đô năm 1990 kèm theo một lời tạ lỗi chân thành! Nếu đúng thì đây sẽ là một trong các quyết định dũng cảm, hợp lòng dân và quan trọng nhất trong lịch sử tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam.      
Hà Nội, 3/8/2014
N.Đ.Q.
Tác giả gửi BVN



Việt Nam phải ưu tiên cho một vụ kiện theo UNCLOS để hạn chế các hoạt động bành trướng của Trung Quốc trên biển

bauxitevn tại Bauxite Việt Nam - 5 giờ trước
*Giang Le* Mấy hôm trước nhà văn Phạm Thị Hoài đặt câu hỏi: "Bao nhiêu bản đồ thì đủ?". Câu hỏi này không chỉ liên quan đến một quyển sách về bản đồ cổ được xuất bản gần đây với đầy lỗi mà còn đụng chạm đến một vấn đề khác quan trọng hơn nhiều: liệu Việt Nam có đang đi đúng hướng chuẩn bị tài liệu và lập luận cho một vụ kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông – Hoàng Sa – Trường Sa? Nhiều người Việt (trước đây tôi cũng vậy) rất hồ hởi khi ai đó tìm ra được một bản đồ cổ thể hiện HS-TS là của VN. Tôi có cảm giác giới chuyên gia Việt hầu như chỉ tập trung vào lĩnh vực này, sưu tầm bản ... thêm »


TQ bác đề xuất ngưng mọi hành động gây căng thẳng ở Biển Đông

bauxitevn tại Bauxite Việt Nam - 5 giờ trước
*[image: clip_image001]* *Người Philippines biểu tình bên ngoài lãnh sự quán Trung Quốc ở thành phố Makati, phía đông thủ đô Manila, ngày 12/6/2014.* Một giới chức cấp cao của Trung Quốc hôm qua tuyên bố Bắc Kinh có thể xây dựng bất kỳ những gì nước này muốn trên các hòn đảo của họ ở biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông), đồng thời phản bác đề xuất chấm dứt mọi hoạt động có thể gây căng thẳng tại vùng biển tranh chấp này, trước khi diễn ra cuộc họp khu vực quan trọng. Ngoại trưởng các quốc gia Đông Nam Á trong tuần này sẽ họp bàn về các vấn đề an ninh với người đồng nhiệm các quốc... thêm »

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

Đảng chai sạn khiến tôi nhiều hư hỏng

PV Quốc Doanh
Không ít người cho rằng, nhờ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có cuộc sống của họ (và dân tộc) hôm nay. Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn trong bài “Đảng là lẽ sống của tôi” có câu “Đảng đã cho tôi lẽ sống niềm tin”; hoặc như ông Đại tá, Phó giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Trần Đăng Thanh ở Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng nói dịp thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam tháng 12-2012, Đảng đã cho ông (và nhiều người) cái sổ hưu.
PV Quốc Doanh tôi là đảng viên lâu năm của Đảng, có được hưởng lợi lộc từ Đảng, từ chế độ do Đảng tạo ra, nhưng không thể nói nhờ có Đảng mới có cuộc sống của tôi. Còn nói nhờ có Đảng, gia đình (cha mẹ) tôi mới có cuộc sống ấm no thì không đúng sự thật.
Dường như có bao nhiêu người nói “ơn Đảng” thì cũng có bấy nhiêu người nói ngược lại, có bao nhiêu lời “ngợi ca Đảng” thì cũng có bấy nhiêu phản bác. Song chẳng hề gì, có ai giúp nhau được mọi mặt đâu, huống chi xã hội. Hôm nay, tôi muốn trình bày vấn đề khác, vì đảng viên lâu năm, được Đảng giáo dục từ nhỏ, Đảng đã làm cho tôi nhiều chai sạn. Cuộc sống dưới bầu trời và giữa cây cỏ tươi xanh, chai sạn cũng có nghĩa hư hỏng.
Lúc còn nhỏ, ông bí thư chi bộ cạnh nhà tôi phản bác việc thờ cúng, cho rằng mê tín dị đoan thì tôi bớt linh thiêng cả việc thờ cúng ông bà, tổ tiên. Năm 1975, tôi ở trong đoàn quân giải phóng, “tiếp quản” một đô thị, được Đảng dạy rất kỹ về địch-ta, vùng tạm chiếm và vùng giải phóng, cách mạng và phản cách mạng, đấu tranh giai cấp, hai phe, ba dòng thác cách mạng, v.v. Một lần, tôi ngồi quán uống trái dừa rồi nạo cùi ăn, cùi mỏng nên lòng thòng như bún, mấy thanh niên nam nữ ngồi gần lén nhìn bấm nhau cười. Tôi ngoảnh sang thấy vậy thì mắc cỡ nhưng cũng trợn mắt để đe doạ, họ vội vàng đứng dậy bỏ đi. Tôi thuộc lực lượng cách mạng, lực lượng giải phóng luôn nghĩ ở vị trí cao hơn những người ở “vùng tạm chiếm”. Vào vườn mận chín đỏ đẹp mắt, rất thèm, bà chủ vườn xởi lởi mời ăn trái mận thì tôi thẳng thừng từ chối, lại mời tôi lúc rảnh rỗi quay trở lại thì tôi ừ hự mà trong bụng nhủ thầm: không được để không bị “mua chuộc”.
Thực tâm tôi không muốn vậy nhưng Đảng đã dạy tôi nghĩ vậy. Hồi đó, chẳng phải những người thuộc “hàng ngũ nguỵ quân, nguỵ quyền” phải đi học tập cải tạo? Những người ở đô thị phải đi vùng kinh tế mới để tự cải tạo? Các vị chính uỷ, chính trị viên trong quân đội luôn răn dạy (và đe doạ) chúng tôi, chiến sĩ cách mạng phải luôn cảnh giác với “viên đạn bọc đường”! Cứ chủ nhật hay lễ tết, tôi rất muốn vào nhà dân chơi mà không dám, thi thoảng vào nhà dân là phải tìm hiểu “địch-ta”, “nguỵ quân nguỵ quyền hay cách mạng” rồi nghe đủ thứ giải thích để chứng minh đó là phe ta (từng giúp cách mạng, có người theo cách mạng hoặc người tập kết, v.v) thì rất mệt mỏi.
Sau này, hễ nhớ lại là tôi mắc cỡ với chính mình: kệch cỡm, lố lăng. Trong lúc, vẫn tự nhận là “quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” và thực sự trở thành quân đội anh hùng là nhờ vậy nhưng khi có được chính quyền, thì chia nhân dân ra nhiều loại và quân đội (cả công an) chỉ coi trọng nhân dân loại một và lo bảo vệ Đảng, thực chất là bảo vệ những người đang ngồi ở ghế lãnh đạo Đảng.
Tôi đã được khuyến khích phát triển cái tâm lý thấp hèn, bội bạc, chia rẽ dân tộc, đặc quyền đặc lợi. Lúc đó, tôi chưa nhận ra đấy là xấu, chưa nhận ra sự bất bình thường mà tưởng là bình thường, như lẽ hiển nhiên, còn lấy làm hãnh diện, vênh vang. Mỗi lần đi đây đó, ra bến xe bến tàu với giấy công lệnh của quân đội, được đứng vào hàng ưu tiên để mua vé, tự hào lắm. Cho đến khi, một vị chính trị viên tiểu đoàn độc lập, trên đường về phép, bị phát hiện bán giấy công lệnh khống (ông có quyền ký và đóng dấu; giấy công lệnh của quân đội được ưu tiên đi lại trên cả nước) thì tôi bắt đầu suy nghĩ khác.
Trước đó, tôi rất tin lời các vị chính uỷ, chính trị viên, những đại diện trực tiếp của Đảng trong đơn vị quân đội. Nghị quyết Đại hội 4 của Đảng cho rằng, kinh tế nước ta phải xây dựng công nghiệp nặng làm nền tảng để phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Tôi có đọc một số tài liệu về phe xã hội chủ nghĩa đang tiến tới “phân công quốc tế” để phát huy thế mạnh từng nước, liền phát biểu, nếu xây dựng một nền kinh tế quốc gia “khép kín từ A đến Z” sẽ không đủ khả năng và cũng không phù hợp xu thế thời đại. Một cán bộ chính trị cắt ngang ý kiến của tôi, bảo rằng Nghị quyết Đảng đã chỉ ra thì không được suy nghĩ khác. Tôi im ngay, không dám cãi. Khi nghe câu chuyện truyền miệng về một vị chính uỷ, trong chiến tranh mỗi lần hành quân được lính cáng võng và ông bảo là “cáng chủ nghĩa Mác-Lênin”, tôi nhận xét, nếu vậy xếp ba lô những cuốn sách về chủ nghĩa Mác-Lênin mà đeo sẽ khoẻ hơn, liền bị kiểm điểm và tôi không dám nghĩ tiếp nữa.
Tư tưởng cho rằng Đảng được độc quyền tư duy, Đảng là cách mạng, công cụ của Đảng cũng ở trên nhân dân hình thành trong tôi gần như không cần bàn cãi. Một lần, có vị sĩ quan khoe đã mua được mấy công đất vùng ven đô để làm nhà, chuẩn bị đưa vợ con ở quê lên, tôi băn khoăn: Tại sao phải mua đất? Vì tôi nghĩ, sĩ quan nhiều năm trong quân đội, đánh nhiều trận, chịu đựng hy sinh gian khổ để “giải phóng miền Nam” thì phải được cấp đất. Suy nghĩ của tôi còn có cơ sở thực tế, rất nhiều “cán bộ cách mạng” đã được chia biệt thự, nhà cửa, đất đai ở miền Nam; nhất là sau khi công hữu hoá đất đai, một trưởng ấp cũng có quyền cấp đất; rồi làn sóng vượt biên để lại nhà cửa, đất đai khắp nơi cho “cán bộ cách mạng” kiểm kê chia nhau. Chiếm đoạt (cướp đoạt) của người khác nhưng có tổ chức, do Đảng cầm đầu, tôi thấy là lẽ hiển nhiên của cách mạng.
Cho mình là công dân hạng nhất, ở trên nhiều “loại công dân khác”, theo tôi là loại tư duy quái gở nhất, làm hư hỏng con người nặng nề nhất. Gần đây, tôi đã bất ngờ khi đọc tài liệu về nước mắm Phú Quốc, biết hồi xưa thực dân Pháp đưa người An Nam vào lính viễn dương, biết lính An Nam thèm nước mắm, một vị tướng Pháp đã yêu cầu chuyển nước mắm Phú Quốc cho lính An Nam. Trong quân đội Việt Nam, hầu như chưa bao giờ được quan tâm tìm hiểu và đáp ứng những nhu của người lính tương tự như thế; đừng nói với nhân dân, nhất là “nhân dân hạng dưới”.
Chuyển sang viết báo quốc doanh, chai sạn do Đảng rèn luyện trong tôi càng nghiêm trọng. Một thời kỳ dài, mọi việc Đảng làm được ca ngợi tuyệt đối đúng, những cơ quan của Đảng như Tổ chức, Kiểm tra, Nội chính, Tuyên huấn và cả công cụ của Đảng như Công an, Quân đội, Thanh tra được coi không bao giờ sai, nếu có sai chỉ là “hiện tượng cá biệt không phải bản chất” hoặc “trong khâu thực hiện” và ở “địa phương”. Lúc đó, lấy được kết luận thanh tra, điều tra hay cáo trạng của viện kiểm sát, bản án của toà án là thả sức phóng bút viết theo, thêm mắm muối a dua hết mức, lên án nặng nề những người là đối tượng của các cơ quan ấy, đòi “trừng trị”, “xử lý nghiêm”. Sau này, liên hệ đến oan sai của ông Nguyễn Thanh Chấn và nhiều vụ oan sai khác nữa, thấy báo chí đã tiếp tay oan sai ghê gớm như thế nào. Tình trạng báo chí chai sạn, vô cảm đến hôm nay chưa phải đã hết, cứ đọc những tờ báo của công an, viện kiểm sát, toà án và cả tờ Quân Đội Nhân Dân hay Nhân Dân sẽ thấy, nhà báo cũng tự cho mình cái quyền suy luận quy chụp, kết tội con người (hoặc trào lưu, xu hướng) rất tuỳ tiện, ngạo mạn. Lắm lúc, tôi không khỏi rùng mình: Báo chí quốc doanh đã tiếp tay gây oan sai cho bao nhiêu người? Luật nhân quả nếu có, tội lỗi gây ra mấy đời trả được?
Nghĩ đến luật nhân quả, tôi lại càng rùng mình về những chai sạn Đảng đang gieo cho người khác. Cái ông sĩ quan an ninh của công an đạp vào mặt người biểu tình chống Trung Quốc xâm lược ở Hà Nội hôm 17-7-2011, ảnh vẫn lưu giữ rõ ràng trên mạng. Rồi mấy ông mấy bà trong buổi sáng đầu năm nay, cũng ở Hà Nội, ôm nhau nhảy “xòn xòn đô xòn” trước Tượng đài Lý Thái Tổ, để ngăn cản những người muốn làm lễ tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới chống Trung Quốc xâm lược năm 1979. Sự chai sạn đã nghiêm trọng tới mức, chai sạn trước sự tồn vong đất nước. Trời ơi, những hình ảnh ấy lưu giữ gần như vĩnh viễn trên mạng, giữa thế giới, ngàn đời bền hơn tượng đồng bia đá, làm sao gột rửa trong lòng con cháu?
clip_image002
Sĩ quan an ninh của công an đạp vào mặt người biểu tình chống Trung Quốc ngày 17-7-2011 ở Hà Nội.
clip_image004
Vị sĩ quan an ninh của công an đạp vào mặt người biểu tình chống Trung Quốc là người mặc áo sọc ngang.
clip_image006
clip_image008
Ôm nhau nhảy múa trước Tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội, đầu năm nay, để ngăn lễ tưởng niệm liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới chống Trung Quốc xâm lược năm 1979.
Sự chai sạn trong tình cảm, tư tưởng không dễ nhìn thấy, mà nhìn thấy cũng không dễ sửa được. Xem phim nước ngoài, thấy chàng trai trẻ không dám làm thịt con cá vì sợ thấy máu cá, tôi cũng buồn cho mình vì không bao giờ còn có được tình cảm với muôn loài một cách hồn nhiên như thế. Tôi được Đảng giáo dục từ tuổi thơ tư tưởng đấu tranh giai cấp, bạo lực cách mạng nên nhìn thế giới quen con mắt tìm kiếm kẻ thù, tìm để tiêu diệt hoặc lên án, hết kẻ thù giai cấp đến kẻ thù phá hoại nhiều mặt, khi không còn kẻ thù của phe xã hội chủ nghĩa (vì phe xã hội chủ nghĩa không còn) thì tìm kiếm kẻ thù diễn biến hoà bình, hết diễn biến từ bên ngoài đến tự diễn biến bên trong, v.v. Một cuộc sống luôn tìm kiếm kẻ thù là con người và gồng mình lên để tiêu diệt kẻ thù là con người, chai sạn có khi còn hơn loài thú vật.
Hồi nào, các báo cáo của công an và một số ngành thường khoe phá được bao nhiêu vụ “tư thương lũng đoạn thị trường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa”, nay có vị tướng công an khoe đã đánh sập được mấy trăm trang mạng lớn nhỏ. Tự do làm ăn, tự do suy nghĩ của con người cũng trở thành kẻ thù của Đảng, đây là sự chai sạn gây hậu quả nặng nề, có hại dai dẳng cho sự phát triển. “Không có gì quý hơn độc lập và tự do”, câu nói của Hồ Chí Minh, người mà Đảng hô hào học tập mấy năm nay nhưng chỉ hô hào học tập đạo đức, còn tư tưởng Hồ Chí Minh thì Đảng không chịu học.
Không được tự do suy nghĩ và làm ăn, nhiều doanh nhân nói với tôi, không muốn phát triển sản xuất kinh doanh, chỉ làm vừa đủ giàu là nghỉ. Nhiều nhà báo, nhà văn, nhà lý luận trở thành bồi bút, viết nịnh hót cho êm tai lãnh đạo Đảng, chứ không vì cuộc sống, vì chân lý. Bản thân tôi, không muốn làm bồi bút thì cũng phải ở trong vòng bồi bút, nhiễm tư tưởng bồi bút và biết đâu, có những bài bây giờ tưởng không là bồi bút nhưng sau này sẽ rõ ra bồi bút? Đảng viên thường không có khả năng nhìn xa trông rộng, nhờ cậy vào lãnh đạo thì lại bị Đảng chai sạn làm cho hư hỏng thêm.
Ai đọc lịch sử nước Mỹ đều biết, sau cuộc nội chiến Nam - Bắc, phía Bắc thắng trận, đã cho xây dựng nghĩa địa chôn cất tất cả những người thiệt mạng trong trận đánh cuối cùng, bất kể họ ở phía nào, Nam hay Bắc, tức là không phân biệt “địch hay ta”. Cái câu “chính quyền của dân, do dân, và vì dân” được Tổng thống Mỹ Lincoln đọc lên trong bài diễn văn chỉ có 272 từ, ở buổi khánh thành nghĩa trang này. Còn lịch sử nước ta, đời Trần đánh quân Nguyên, triều đình phải rời Thăng Long lúc ban đầu thế yếu, sau thắng trận trở về, có vị quan dâng lên một cái tráp đựng bản danh sách những kẻ theo địch mà ông thống kê được. Vua khen thưởng cho người biết đề cao lợi ích dân tộc lúc nước mất nhà tan nhưng liền đó, sai người đốt cái tráp với bản danh sách ấy trước mặt bá quan văn võ. Ý nhà vua rất rõ, đất nước hoà bình rồi, bỏ hết mọi lỗi lầm lúc loạn lạc, muôn dân quên hận thù để đoàn kết xây dựng đất nước. Lãnh đạo có tầm cao nhìn xa hơn quan lại thấp bé, để đất nước yên lành cường thịnh, chứ không khuyến khích sự hẹp hòi, ngu muội thú tính trong mỗi con người nhỏ bé.
Trung Quốc đặt giàn khoan HD 981 vào vùng biển nước ta, tôi hỏi một vị cán bộ cao cấp của Đảng, tại sao không liên minh với Mỹ để chống sự xâm lược của Trung Quốc? Vị này đáp, muốn lắm nhưng đối xử làm sao với hệ thống tượng đài, bia chiến thắng và cả bia căm thù Pháp, Mỹ đã dựng lên khặp nước? Tôi đảng viên thường thêm buồn vô cùng sau câu trả lời, chính chủ trương của Đảng suốt mấy chục năm qua dựng lên vô vàn tượng đài và bia mộ để khoét sâu hận thù Việt-Pháp và Việt-Mỹ để dẫn tới bế tắc chiến lược hôm nay. Cần khẳng định, một số tượng đài và bia mộ là cần thiết nhưng không phải tất cả. Xin hãy tưởng tượng, trong lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc, nếu thời nào sau chiến thắng ngoại xâm cũng dựng nhiều tượng đài và bia mộ như mấy chục năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thì liệu đất nước này có còn đất mà sản xuất, sinh sống hay không? Nếu tiền của để dựng đa số tượng đài và bia mộ ấy, được dành phát triển kinh tế, văn hoá, lo cuộc sống cho các gia đình chính sách thì kết quả tốt đẹp hơn nhiều lần. Gia đình chính sách no ấm, lòng cũng khuây khoả nỗi đau quá khứ, sống ân tình hơn với xung quanh.
Không tạo ra được thắng lợi trong xây dựng đất nước, Đảng cứ “ăn mày dĩ vãng” mà đưa dân tộc đi luẩn quẩn. Từ ngày hoà bình, chưa thấy Đảng có quyết sách gì thể hiện tầm nhìn xa của người lãnh đạo, chỉ thấy thỉnh thoảng Đảng đưa đất nước đến tình thế không thể không thay đổi, không thể không thoát ra và thoát ra được là kể lể “thắng lợi lớn”, “bước ngoặt quan trọng”. Giải quyết tình thế cũng chủ yếu bằng kích thích tinh thần tự ái hẹp hòi của một bộ phận dân tộc chứ không phải bằng sự đoàn kết toàn dân tộc, bằng dân chủ và hoà hợp dân tộc, bây giờ “hết bài” là bế tắc. Bây giờ, cái bộ phận được kích thích tinh thần tự ái ấy đã mệt mỏi, chán nản, như bản thân tôi cảm thấy ngột ngạt, không thể kéo dài tình trạng chai sạn hư hỏng thêm nữa. Chai sạn để “đấu tranh giai cấp”, “tiêu diệt kẻ thù” dù phải “hy sinh bản thân mình” chỉ có thể tồn tại trong những trường hợp đặc biệt của cuộc sống, không thể tồn tại lâu dài trong cuộc sống bình thường. Cuộc sống bình thường là phải hồn nhiên và lương thiện từ học hành, làm ăn đến vui chơi, từ trong nhà ra ngoài ngõ, sang hàng xóm và với cả làng nước, thế giới để “tất cả cùng thắng lợi”. Cuộc sống bình thường không chấp nhận vẻ mặt sắt máu, du côn nhìn thiện hạ là muốn “đấu tranh giành thắng lợi tuyệt đối” cho bản thân mình.
Lại cần phải nói rõ điều này, hồi nào hấp dẫn tôi cái chủ nghĩa xã hội để tôi tự nguyện vào Đảng không phải vì Chủ nghĩa Mác-Lênin với “đấu tranh giai cấp” mà chính xác là với “bốn phương vô sản đều là anh em”. Cả thế giới là anh em, hỗ trợ nhau đi lên no ấm, hạnh phúc thì còn gì bằng, phấn đấu cho điều đó là sẵn sàng. Bây giờ thấy rõ đó là mong ước quá xa vời, đã sụp đổ khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, đi tới mục tiêu lý tưởng ấy bằng “đấu tranh giai cấp” và “bạo lực cách mạng” là cực kỳ sai lầm.
Có thể nào đi tới nhân loại đại đồng ấm no hạnh phúc khi giai cấp vô sản toàn thế giới cố kết nhau lại trừ khử hết các giai cấp khác, tiêu diệt sạch những người không cùng phương pháp sắt máu? Chao ôi, đã có nhiều “phong trào cách mạng” chỉ đưa đến kết quả tang thương. Ở nước ta, đó là cải cách ruộng đất, hợp tác hoá, tập đoàn hoá, công hữu hoá, các đợt bài phong, các đợt đánh tư sản và cả đánh văn nghệ sĩ trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, v.v. Xã hội náo loạn, bất ổn vì những “phong trào cách mạng” như thế, khiến con người ngày càng bị nhào nặn chai sạn, vô cảm, thậm chí mất lý trí đến mức cha con đấu tố nhau, vợ chồng ruồng rẫy nhau, anh em từ mặt nhau.
Đến hôm nay, cái lý tưởng “thế giới đại đồng” vô cùng tốt đẹp ấy vẫn tồn tại, nó là lý tưởng của loài người nhưng không còn là đặc trưng hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội nữa mà dường như đã thuộc về chủ nghĩa tư bản với Liên minh Châu Âu và nhiều liên minh khác, điển hình như liên minh Nhật-Mỹ vượt lên hận thù ghê gớm gây ra bởi hai quả bom nguyên tử. Thế giới chuyển biến theo lẽ tự nhiên đi tới tốt đẹp nhanh chóng đến không ngờ như cây xanh tươi ra hoa kết trái, còn Đảng loay hoay với “đấu tranh giai cấp”, với “ba dòng thác cách mạng” đã để vuột mất ngọn cờ “bốn phương vô sản đều là anh em” cũng không ngờ. Không còn lý tưởng hấp dẫn, Đảng tỏ ra hậm hực như có báu vật bị cướp mất, lại loay hoay đi tìm kẻ thù để xả nỗi bực tức, hết kẻ thù rõ mặt đến kẻ thù giấu mặt. Loanh quanh tìm kẻ thù để tiêu diệt trên đất nước, trong nhân dân và trong cả nội bộ, Đảng ngày càng mất phương hướng, làm cho những người kiên trì theo Đảng trở thành ngớ ngẩn, hồ đồ và thêm chai sạn.
Nên giờ này, giữa Trung Quốc và Mỹ (cùng những nước dân chủ văn minh), giữa “đấu tranh giai cấp” với “hợp tác toàn cầu”, Đảng lúng túng không biết đâu là bạn đâu là thù, phải đem hệ thống tượng đài và bia mộ xây dựng mấy chục năm qua ra làm công sự ẩn nấp. Một cuộc ẩn nấp để trốn tránh trách nhiệm, như mọi cuộc ẩn nấp khác lại ra sức lo củng cố hầm hào, thành luỹ, Đảng không ngừng xây dựng thêm nhiều tượng đài, bia mộ, nghĩa trang mà những dịp như ngày 27/7 này, khắp nơi đang chứng kiến. Cái hố chia rẽ dân tộc lẽ ra phải khoả lấp hằng ngày, hằng năm thì Đảng khoét sâu thêm, rộng ra, muốn thoát khỏi cái vòng tròn do mình vạch ra mấy chục năm qua nhưng lại không thoát ra được quán tính hành động mất phương hướng và chai sạn cả tình cảm lẫn lý trí. Không còn tư chất lãnh đạo, một chút cũng không còn, chỉ còn tư chất bám víu, tầm gửi. Vì thế mà giả dối đã trở thành đặc trưng của lãnh đạo thời nay. Giả dối khủng khiếp. Có vị long trọng hô hào chống “ngoại lai” không biết ngượng mồm khi vẫn hô hào “kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin”. Cái chủ nghĩa ấy không phải ngoại lai chắc? Giả dối trong lời nói, hành vi và nghị quyết, giả dối tệ hại nhơn nhơn, tỉnh bơ làm chai sạn, vô cảm, u lì cả cả xã hội. Nhiều đảng viên băn khoăn, hình như lãnh đạo Đảng không được lãnh đạo nước khác tin cậy? Tôi hỏi lại, đảng viên và người dân nước ta có tin cậy không? Bật ti vi lên, thấy mặt đa số lãnh đạo Đảng là tôi chuyển kênh.
Khi tình cảm và tư tưởng con người chai sạn thì xã hội bị chai sạn trên mọi lĩnh vực, mọi ngóc ngách. Kinh khủng nhất là tình trạng dân oan kéo từng đoàn dài từ Bắc đến Nam, lê la ở thủ đô Hà Nội quanh năm, đã trở thành bình thường như một phần không thể thiếu của “xã hội xã hội chủ nghĩa”. Đủ mọi tầng lớp đã có mặt trong đoàn dân oan đi khiếu kiện ấy, đa số do bị cướp đoạt đất đai, cướp đoạt mất cái tư liệu sản xuất chủ yếu để sinh sống của người nông dân. Nhưng bao phận người đau khổ tột cùng ấy lại rất ít còn được truyền thông phản ánh. Vì quá nhiều, vì phản ánh dường như không có kết quả, thậm chí không có người đọc (trừ những người liên quan). Cả xã hội chai sạn ghê gớm như thế! Nguyên nhân gốc rễ ở đâu? Ai cũng có thể chỉ tận mặt: Cái quan điểm “đất đai sở hữu toàn dân” quái gở. Có bà mẹ liệt sĩ gào lên: Đất đai của tổ tiên tôi để lại, tôi không nợ nần gì nhà nước này cả (nếu có nợ nần là nhà nước nợ bà), tại sao ra quyết định thu hồi đất của tôi? Mọi người có thể trả lời bà, trừ Đảng. Chai sạn mất rồi vì thứ lý thuyết học mót không đến nơi đến chốn, Đảng không còn nghe được tiếng nói của đảng viên, nguyện vọng của nhân dân, đã ù lì như vô tri vô giác. Đã không biết lắng nghe tiếng nói của cuộc sống, Đảng lại theo thói quen “tìm kẻ thù”, chăm chăm tính tỷ lệ bao nhiêu phần trăm khiếu kiện đúng và bao nhiêu (cho là) sai hoặc có đúng có sai, và dẫu tỷ lệ đúng luôn áp đảo thì Đảng vẫn không chịu sửa mình mà tiếp tục hô hào “tuyên truyền giáo dục nhân dân”.
Chai sạn nguy hiểm khi không còn nghe được ý kiến của người khác, không còn nghe được tiếng kêu than của dân chúng. Biết lắng nghe thì mới phân biệt được phải trái và muốn lắng nghe thì trước hết phải biết tôn trọng con người, đây lại đụng đến điểm yếu chí mạng của Đảng. Lâu rồi, Đảng không biết tôn trọng con người, không biết tôn trọng nguyện vọng, tình cảm, tôn giáo, tín ngưỡng của con người. Đảng tự cho mình đã nắm được học thuyết tiến bộ của nhân loại, có tư tưởng tuyệt đối đúng đắn, có quyền đứng trên nhân dân để “tuyên truyền giáo dục nhân dân”. Mỗi lúc, nhân dân làm được việc gì đó thành công, Đảng cho rằng do Đảng lãnh đạo tài tình sáng suốt, các cơ quan của Đảng giỏi “tuyên truyền giáo dục nhân dân”. Những khi xã hội nảy sinh vấn đề do quá trình phát triển hay do Đảng gây ra, các cơ quan của Đảng đã thành thói quen, nêu giải pháp hàng đầu là “đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nhân dân”.
Bản thân tôi phải rèn luyện nhiều mà vẫn không gột bỏ được hoàn toàn vết chai sạn do Đảng gây nên trong người, mỗi khi nghe ý kiến trái với mình, dẫu đã thấy đúng thì vẫn lợn gợn khó chịu, có chấp nhận cũng gượng gạo, không tự nhiên. Sao mà tôi thèm muốn đến thế cái tâm thế cởi mở, sẵn sàng lắng nghe, vui vẻ chấp nhận những ý kiến khác với suy nghĩ của mình. Sao tôi a dua với Đảng cả những điều sai lại dễ dàng, mà lắng nghe tiếng nói đúng lại khó khăn đến thế! Vì chai sạn, hư hỏng mất rồi. Bao nhiêu năm vênh vang ngỡ mình trong đoàn người tiên phong đưa dân tộc đi đến hạnh phúc, biết đâu đó là quá trình hư hỏng bản thân, đến lúc nhận ra thì mục nát không còn sửa được.
Bây giờ tôi vẫn chưa bỏ được Đảng. Bao nhiêu năm “dưới sự lãnh đạo của Đảng”, tôi đã đánh mất tinh thần độc lập tự do, không quen chịu trách nhiệm, sợ thay đổi. Tôi tâm sự điều này với một ông ngoài 70 tuổi, có năm chục tuổi đảng, thì ông bảo “em chưa nghỉ hưu không bỏ Đảng được”. Tôi hỏi, vậy anh nghỉ hưu đã lâu sao còn sinh hoạt Đảng? Ông lo lắng, sợ ảnh hưởng đến con cháu. Tôi đề nghị, anh hỏi con cháu xem chúng có muốn anh tiếp tục sinh hoạt Đảng hay không? Ông thẫn thờ một lúc, hạ giọng, chắc con cháu không muốn ông tiếp tục sinh hoạt Đảng bởi chẳng được lợi lộc gì, còn thiệt hại nhiều thứ. Nhưng ông vẫn không bỏ được sinh hoạt Đảng, cũng như tôi đã chai sạn vô tích sự mất rồi, phải đợi người lãnh đạo mới, chẳng biết dân tộc đã sinh ra hay chưa?
Tháng 7/2014
PV Q. D.
Tác giả gửi BVN.(http://boxitvn.blogspot.com/2014/07/ang-chai-san-khien-toi-nhieu-hu-hong.html)