Câu chuyện đầu xuân: Văn hóa Việt trong vận khí suy vong
RFI : Thân chào tiến sĩ Phạm Chí Dũng, rất vui được tiếp
chuyện anh nhân dịp xuân về. Trước hết anh có thể cho biết cảm xúc của
anh trong bầu không khí đầu năm mới ?
Rất khó tả, nhưng rõ rệt nhất là thiếu hẳn hương sắc mùa xuân. Làm
sao có thể vui nổi khi đây là cái Tết thứ ba liên tiếp tôi chứng kiến
cảnh tượng hàng vài chục ngàn công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế
xuất không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn Tết. Với họ, đang xảy ra
một nét văn hóa rất mới, có thể gọi là “văn hóa tết cấm trại”. Tức phỏng
theo một điều lệnh trong quân đội, công nhân ở nguyên trong khu nhà trọ
mà không dám bước ra đường vì chẳng có tiền. Mà như vậy thì còn gì là
tết?
Không khí đường phố cũng uể oải và bải hoải. Chỉ sát Tết người dân
mới có chút tiền để mua sắm, nhưng ở nhiều tụ điểm mai và đào vẫn ế
chỏng chơ. Khách hàng đã và đang quay lưng với thị trường như một dạng
văn hóa phủ nhận trong kinh doanh.
Đã đến lúc người dân không thể mặc định sắc màu của nền văn hóa dân
tộc như những báo cáo tô hồng của chính phủ về nền kinh tế hay những
nghị quyết của đảng về đường lối kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội đến
hết thế kỷ 21. Hiện tại được dẫn dắt bởi quá khứ, và tương lai lại được
quyết định bởi những gì trong hiện tại.
Quá khứ đó, chúng ta thấy cái gì? Năm 2013 chứng kiến những trận hôi
của vĩ đại chưa từng thấy ở một số địa phương, cuộc tranh cướp bánh
sushi trong một nhà hàng ngay tại thủ đô, cho dù không thể cho rằng tất
cả những người tranh giành đều đói khát và đất nước cũng chưa đến thời
đói kém…
Những hiện tượng xã hội đó đang góp phần triệt tiêu nhanh chóng khẩu
hiệu của đảng “xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân
tộc”. Tương tự, điều lạ lùng là trong mấy năm gần đây, chẳng mấy cơ quan
tuyên giáo và dân vận còn nhắc tới khẩu hiệu này. Vì sao vậy? Đơn giản
là thực tiễn đã trở nên tồi tệ đến mức giới chức đảng lẫn chính quyền
không thể cứ mãi tự ru ngủ mình và mị dân xã hội bằng những lý lẽ một
chiều đã bị thực tế bào mòn đến tận chân gốc. Dù luôn bị ăn sâu tâm lý
thành tích, ít nhất họ cũng phải tự rung động một nỗi xấu hổ tối thiểu
nào đó chứ!
RFI : Những giá trị truyền thống của ông cha như « Giấy rách
phải giữ lấy lề », « Một câu nhịn chín câu lành »…dường như đã bị thay
bằng sự vô cảm, tâm lý mạnh được yếu thua. Ngày nào đọc báo cũng đều
thấy những tin được gọi là « cướp, hiếp, giết », người ta sẵn sàng chà
đạp lên nhau, thậm chí mạng người có thể bị mất đi vì những lý do rất
nhỏ nhặt. Thưa anh, phải chăng đạo đức xã hội đang rơi xuống tận đáy ?
Khi xảy ra cái chết ở thẩm mỹ viện Cát Tường tại Hà Nội vào năm 2013,
một quan chức cao cấp ngành y tế đã phải thốt lên rằng đạo đức và y đức
đã xuống đến đáy. Nhưng tôi cho là tất cả vẫn chưa phải tồi tệ nhất.
Cái tồi nhất nằm ở phía trước, ở thì tương lai đầy sương mù và dưới vực
thẳm, mà chế độ này và phần lớn dân chúng vẫn chưa hình dung hết.
Phía trước ấy là một cuộc tha hóa vĩ đại của toàn bộ nền văn hóa.
Tuân theo quy luật vật chất quyết định ý thức, kinh tế quyết định văn
hóa và bất kỳ khi nào nền kinh tế lao vào hố sâu khủng hoảng, đời sống
sẽ trở nên thiếu thốn và đói kém đến mức một bộ phận dân chúng sẵn sàng
giết nhau để sinh nhai.
Lịch sử đã chứng minh hết sức cận kề ở một quốc gia đông dân nhất thế
giới, chính là Trung Quốc trong thời Cách mạng văn hóa những năm 60 của
thế kỷ trước. Khi đó có đến 30 triệu người bị chết không chỉ bởi vô số
cuộc thanh trừng, mà còn bởi đất nước này đã rơi vào thảm trạng đói kém
đến mức tại một số nơi người dân đã phải ăn nhau để cầm hơi. Đó chính là
điều tồi tệ phi nhân tính nhất, mà một nền văn hóa suy đồi đến tận cùng
có thể mang lại.
Năm 2013 đã trở nên một đặc tả khá kinh khủng, trên bức tranh khốn
quẫn của nền văn hóa đang lao dốc và còn chưa tìm thấy đáy ở Việt Nam.
Cùng với cái gọi là nền văn hóa tham nhũng chưa từng thấy ở đất nước
này, khắp nơi trong xã hội đã diễn ra cảnh cha con giết nhau, vợ chồng
giết nhau, thầy đánh trò và trò giết thầy, nạn cướp của và hiếp dâm nổi
lên khắp nơi. Cường hào ác bá cũng hoàn hành tàn lộng và bất chấp đạo
lý. Nhưng nghịch lý ghê gớm là kinh tế càng suy thoái, người giàu lại
càng giàu. Không biết bao nhiêu quan chức đã ních đầy túi và chỉ còn chờ
chực cơ hội biến khỏi tổ quốc nếu xảy ra động loạn…
Rồi một điều tất yếu phải xảy ra là khi luật pháp không còn là mái
nhà che chở cho người dân, chính nhân dân đã phải làm thay luật pháp.
Nạn tự xử đối với những kẻ trộm chó mèo diễn ra ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà
Tĩnh, … Ở Bắc Giang, khi vài người dân bị công an khởi tố bắt giam vì
đánh chết cẩu tặc, đã có đến 800 người dân khác đồng ký tên vào một bản
tuyên bố cùng nhận tội. Đó là cái gì? Một loại văn hóa phản kháng của
người dân đang phát tiết ngay trong lòng chế độ “của dân, do dân và vì
dân”.
Tố chất văn hóa phản kháng đó đã dẫn đến làn sóng chống người thi
hành công vụ lan rộng một cách đầy tự phát và bạo lực ở nhiều nơi. Không
hiếm cảnh thanh niên đi đường và những người dân “săn sóc” một cách đặc
biệt đến hành vi của cảnh sát giao thông, bởi lực lượng cảnh sát bị xem
là đối tượng tham nhũng nhất quốc gia này càng ngày càng mang ý nghĩa
như một mồi lửa châm ngòi cho các cuộc xung đột tự phát và rất khó kềm
chế.
RFI : Thưa anh đầu năm thường nói chuyện vui, nhưng bức tranh
thực tế xã hội lại quá xám. Những cách hành xử của con người thường từ
nền giáo dục mà người đó được hấp thụ. Vậy thì theo anh trách nhiệm của
ngành giáo dục đối với nền văn hóa như thế nào ?
Đóng góp không nhỏ vào sự xuống cấp của nền văn hóa là thực trạng lầy
lội và ô nhiễm nặng mùi của ngành giáo dục vẫn chưa hề được cải tạo.
Tiên đề “Tiên học lễ, hậu học văn” từ ngàn đời nay đã từ lâu bị phần lớn
trường học biến thành thảm trạng mà chúng ta nên nhận thức lại là “Tiên
học phí, hậu học thêm”. Có lẽ mệnh đề này mới nói lên tất cả cái thực
trạng quay quắt đến mức khốn cùng của môi trường giáo dục đào tạo và
giới quan chức điều hành ngày nay.
Không khác gì thị trường bất động sản, vài năm gần đây người ta đã
phải dùng đến cụm từ “bong bóng đại học” cho sự bùng nổ bội cung của
hàng trăm trường đại học tư thục và dân lập từ Bắc chí Nam. Nhưng ngược
lại với đà tăng tiến theo cấp số nhân về số lượng các trường đại học,
cao đẳng và chương trình “đào tạo 20.000 tiến sĩ’ của nguyên Bộ trưởng
Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân và đời Bộ trưởng kế vị, chất lượng đào tạo
còn lâu mới làm nên một nền văn hóa xứng tầm với Thái Lan. Ít nhất là về
tỉ lệ công trình nghiên cứu được công bố trên đầu các tiến sĩ, cùng bài
luận văn tả cảnh các cô giáo bỏ nghề và học sinh vùng cao phải bắt
chuột ăn thay cơm.
Tình trạng xuống cấp toàn diện của giáo dục và văn hóa cũng khiến cho
hiện tượng không có tác phẩm hay trong văn học nghệ thuật trong suốt
nhiều năm qua trở nên rất dễ lý giải trong đời sống văn nghệ Việt Nam.
Bất chấp các cuộc thi và trao giải thưởng đều đặn hàng năm của các hội
đoàn văn học và nghệ thuật nhà nước, vẫn không có lấy vài ba tác phẩm
trong lĩnh vực văn học, sân khấu, mỹ thuật, điện ảnh, âm nhạc… ghi dấu
ấn cho một tinh thần hồi tâm thành khẩn.
Hầu như tất cả đều nhàn nhạt, nhòa nhạt và luôn đi sau hiện tồn nhức
nhối của xã hội ít ra vài thập kỷ. Nhiều nhà văn và nhà viết kịch đủ
lòng tự trọng không còn cầm nổi bút, bởi tâm trạng chán chường và thất
vọng quá giới hạn cho phép. Chỉ còn một số người viết vì cơm áo gạo
tiền, hoặc làm cái gọi là “sáng tạo” vì các đơn đặt hàng và giải thưởng
từ Nhà nước. Không thể nói khác hơn, văn học nghệ thuật quốc doanh từ
lâu nay đã mang trên mình thiên chức văn hóa cộng sinh.
RFI : Khái niệm « văn hóa cộng sinh » mà anh vừa đề cập, có
lẽ không thể loại trừ giới quan chức, vì những lề thói đã ăn sâu vào họ ?
Văn hóa gia đình, văn hóa trường học và văn hóa cộng đồng là ba rường
cột của một nền văn hóa. Nhưng một khi cả ba trụ cột ấy đều bị xâm hại
một cách trầm kha, thì không còn gì có thể cứu vãn nổi một nền văn hóa
chính trị. Nhất là khi nền văn hóa chính trị ấy lại bị ruỗng mục bởi
thói vô cảm, vô trách nhiệm và quá đậm đặc tố chất lợi ích nhóm của giới
quan chức.
Vì thế, chúng ta có thể coi văn hóa quan chức là thành tố thứ tư gây
xâm hại đối với nền văn hóa Việt Nam đương đại, nhưng đặc biệt hơn cả
lại là nhân tố cộng sinh ưu tú nhất. Giới quan chức đổ cho 70% doanh
nghiệp chủ động đưa hối lộ, nhưng làm sao có thể lý giải sự mâu thuẫn
không thể chấp nhận được, giữa tỉ lệ “chỉ có 1% công chức yếu kém” như
báo cáo của chính quyền, với con số ít nhất 30% công chức “chủ động nhận
hối lộ” trong những kết quả khảo sát về tham nhũng?
Một cuộc khủng hoảng văn hóa đang tăng tiến với gia tốc ngày càng gấp
rút. Cuộc khủng hoảng ấy lại biến diễn sang cuộc khủng hoảng niềm tin
của người dân đối với xã hội, của công dân đối với đất nước và cuối cùng
là của người dân đối với chế độ. Những cuộc điều tra xã hội học đã cho
thấy niềm tin của giới trẻ vào đảng và chế độ sa sút khủng khiếp, và
trong giới trẻ giờ đây không còn cái gọi là lý tưởng nữa. Nếu có được
một cuộc khảo sát độc lập, người ta tin chắc rằng chỉ còn không đầy 10%
trong số lớp trẻ tin vào việc “nền văn hóa xã hội chủ nghĩa” có thể tôn
tạo cho nền văn hóa dân tộc.
Ngược lại, một chủ nghĩa văn hóa phủ nhận đang hình thành và phát triển rất ghê gớm trong một số khá đông lớp trẻ ở Việt Nam.
RFI : Về « chủ nghĩa văn hóa phủ nhận » như anh nói, theo anh lớp trẻ đang phủ nhận những giá trị gì ?
Phủ nhận những giá trị tinh thần, phủ nhận những giá trị truyền
thống, và phủ nhận với chính những thế hệ đi trước. Hiện tượng đó làm
chúng ta nhớ lại thế hệ mất mát, nảy sinh ở châu Âu trong vài thập kỷ
sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cũng là suy thoái kinh tế
trầm kha, cũng là cái nhìn về một tương lai mơ hồ, cũng là tâm trạng đầy
bất an và dễ nổi loạn.
Nhưng ở Việt Nam, điều nguy hiểm hơn nhiều là cái tương lai như thế
còn trở nên vô định bởi một nền chính trị hủ hóa, cố chấp và luôn có
nguy cơ gây nên hiệu ứng hạ cánh cứng. Từ đó sẽ sinh đẻ vô số hậu quả
trầm luân cho đời sống người dân, đặc biệt là dân nghèo.
Hơn bao giờ hết, đặc thù văn hóa Việt Nam được quyết định bởi nội lực
nền kinh tế và kế sinh tồn của mỗi công dân. Trong giai đoạn “cất cánh”
từ thời mở cửa kinh tế những năm 1990, chủ nghĩa kiếm tiền và đầu cơ
thượng hạng đã phủ trùm lên cả xã hội, để sau đó vào thời kỳ suy thoái
từ năm 2008 đến nay, điều được coi là “văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc”
cũng bị suy mòn theo lý lịch không mấy trong sáng của đồng tiền.
Phía trước, màu đen khó che giấu của của nền kinh tế đang chờ đón một
khoảng trống chân không văn hóa, nơi mà hố sâu bất bình đẳng xã hội sẽ
sâu thẳm hơn bao giờ hết. Tâm lý chà đạp lẫn nhau sẽ thổi bùng lên ngọn
lửa tranh đấu cực kỳ tàn khốc giữa các giai tầng và trong chính từng
giai cấp, để cuối cùng bản thân nền văn hóa bị giẫm đạp đến kiệt sức.
Không thể lạc quan về nền văn hóa Việt trong năm 2014 và cả những năm
sau đó, tôi cho rằng sự biến mất của một nền chính trị đương thời còn
dễ được chấp nhận hơn rất nhiều, so với những mất mát của một nền văn
hóa dân tộc mà người dân nước Việt có thể phải mất đến nửa thế kỷ để
phục hồi nó.
Rất nhiều người như tôi vẫn ngày đêm dồn dập thổn thức trong lòng một
câu hỏi đích đáng: Ai và những tác nhân nào đã khiến cho nền văn hóa
dân tộc suy đồi và suy vong ghê gớm đến thế? Kẻ nào phải chịu trách
nhiệm lịch sử về hậu quả lịch sử quá đau đớn ấy?