Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2014



Không có cái gọi là "từ Hán Việt"

Hà Văn Thùy
Trên
trang mạng Bách Việt, ông Trần Kinh Nghị có bài “Di sản Hán Việt”*. Sau
khi nhận định: quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố
Hán-Việt, ông cho rằng “nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước mình
bị một ngôn ngữ khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài chắc chắn sẽ
dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa hoặc thoái hóa.” Kết thúc bài viết, ông đề
nghị Nhà nước có biện pháp hạn chế việc dùng từ Hán Việt để giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt.
Đồng cảm với nỗi bức thúc của ông nhưng nhận thấy đây là vấn đề lớn và không hề đơn giản, chúng tôi xin thưa lại đôi lời.
I. Có đúng tiếng Việt vay mượn từ ngôn ngữ Hán?
Muốn
giải quyết thỏa đáng chuyện này, không còn cách nào khác là phải đi tới
tận cùng cội nguồn ngôn ngữ, không chỉ của người Việt mà cả của người
Trung Hoa.
Nửa
sau thế kỷ XIX, ngay khi chưa đặt xong ách đô hộ trên toàn cõi Vệt Nam,
những học giả người Pháp đã có mặt để nghiên cứu thiên nhiên, con
người, văn hóa, xã hội xứ Annam. Từ kết quả nghiên cứu, năm 1898, nhà
nước bảo hộ Pháp cho thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội. Đứng
đầu lĩnh vực khoa học nhân văn là những nhà Hán học như E. Aymonier, L.
Maspéro… Là học giả phương Tây, họ mang quan niệm Âu trung: châu Âu là
trung tâm của văn minh nhân loại. Là nhà Hán học, họ theo thuyết Hoa
tâm: Trung Hoa là trung tâm của châu Á. Họ cũng chịu ảnh hưởng của tri
thức sai lầm đương thời cho rằng, con người từ Tây Tạng xâm nhập Trung
Quốc rồi sau đó xuống Việt Nam và Đông Nam Á nên ánh sáng văn minh cũng
từ Trung Hoa lan tỏa tới phương Nam. Khi nghiên cứu tiếng nói của người
Việt Nam, họ có trong tay những bộ từ điển Trung Hoa đồ sộ như Từ Hải,
Tứ khố toàn thư, Khang Hy… Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có Từ điển
Việt-Bồ-La của Alexander de Rhodes cùng Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh
Tịnh Của, hai cuốn sách nhỏ, tập hợp từ ngữ Việt chữ Latinh mới có
khoảng 300 tuổi. Bằng thao tác đơn giản là thống kê, so sánh những từ được cho là gốc Hán có trong tiếng Việt, họ eureka: “Tiếng Việt mượn khoảng 70% từ Hán ngữ!”
Sự thật có đúng như vậy không?
Vào
năm 1898, H. Frey, một đại tá người Pháp, từng công tác ở Tây Phi sau
đó có mặt ở Việt Nam, đã xuất bản cuốn Tiếng Annam, mẹ của các ngữ (L’Annamite, mère des langues): Tiếng Annam, xuất xứ của các ngôn ngữ: Cộng đồng các chủng tộc Xentơ, Xémit, Xuđăng và Đông DươngBằng kinh nghiệm ở Châu lục đen, nhà ngữ học chân thực này cho rằng tiếng Việt gần gũi với tiếng các sắc dân châu Phi và là nguồn cội của mọi ngôn ngữ phương Đông.
Tiếp đó ông còn cho ra hai cuốn khác khẳng định quan điểm của mình. Tuy
nhiên, các viện sĩ của Viễn Đông Bác Cổ “không thèm chấp” gã tay ngang
võ biền. Không chỉ vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa
nhà ngữ học trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu
của mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục phần
thắng thuộc về bậc lão làng!
Kết
luận của Viện Viễn Đông Bác Cổ dáng đòn hủy diệt không chỉ vào văn hóa
mà cả vào tương lai dân tộc Việt Nam! Do ngón đòn ác hiểm này mà sau đó,
khi phân loại ngôn ngữ phương Đông, đề xuất một họ ngôn ngữ Annam bị bãi bỏ do “không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước ngoài!” Thay vào đó là họ ngôn ngữ mang cái tên không tiêu biểu: ngôn ngữ Mon-Khmer.
Kết quả là cho đến nay, trong sách giao khoa ngôn ngữ của nhiều đại học
hàng đầu thế giới vẫn viết “Tiếng Việt vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ
Trung Hoa (!)” Dù sao thì cũng được an ủi phần nào vì 60% ít hơn con số
chúng ta tự nhận!
Điều
khủng khiếp nhất là, vào thập niên 1920, các học giả tiên phong người
Việt như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố… tiếp nhận tri thức sai lầm đó,
dạy cho con dân Việt. Ý tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ dại
lan rộng trên cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam
hiện nay! Gần suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại. Ở thập
niên 80, trong công trình ngữ học công phuNguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn “khám phá”: ngoài cái gọi là “từ Hán Việt”, trong tiếng Việt còn lớptừ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa (1).
Không đưa ra con số thống kê nhưng với hai lớp từ được bổ sung đó, có
lẽ tỷ trọng vay mượn của tiếng Việt còn tăng lên gấp bội!
Nhưng
dù sao, đấy chỉ là tính toán của nhà bác học, còn với người dân Việt,
ít người tin, chỉ vì lý do đơn giản: một dân tộc vay mượn đến bằng nấy
tiếng nước ngoài không thể là dân tộc trưởng thành, chắc chắn đã bị đồng
hóa sau nghìn năm nô lệ!
Năm 2006, từ nghiên cứu của mình, chúng tôi công bố bài viết Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa (2).
Rất may là ý tưởng “điên rồ” đó chẳng những không bị ném đá mà còn
không rơi vào im lặng. Ít lâu sau, từ Sacramento nước Mỹ, nhà nghiên cứu
Đỗ Ngọc Thành gửi cho chúng tôi những bài viết chấn động: Phát hiện lại Việt Nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn, Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm…(3)
trong đó dẫn ra hàng nghìn bằng chứng không thể phản bác cho thấy,
tiếng nói nguyên thủy của người Trung Hoa là tiếng Việt. Người bạn Việt
Triều Châu của tôi khẳng định: “Tất cả các chữ tượng hình được làm ra là
để ký âm tiếng Việt. Vì vậy, mọi chữ vuông chỉ khi đọc và giải nghĩa
bằng tiếng Việt mới chính xác!” Một sự ủng hộ vô giá! Càng may hơn là
đầu năm 2012, chúng tôi nhận được tin: Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt
tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát hiện chữ Việt cổ khắc trên xẻng đá, giống
với chữ Giáp cốt (4)! Từ những nguồn tư liệu phong phú và vững chắc,
chúng tôi nhanh chóng hoàn thành bài viết: Chữ Việt là chủ thể tạo nên
chữ viết Trung Hoa (5)!
Như
vậy, sang thế kỷ này, nhờ tiến bộ của khoa học thế giới, nhờ tấm lòng
và công sức của cộng đồng người Việt, không những chúng ta xác định
được người Việt có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa, Việt Nam là cái nôi của các dân tộc phương Đông mà còn chứng minh được, tổ tiên ta để lại trên đất Trung Hoa không chỉ tiếng nói mà c chữ viết.
Chúng tôi hình dung quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết trên đất Trung Hoa như sau:
Nhiều
dữ liệu khoa học cho thấy, 40.000 năm trước, người Việt cổ đã từ Việt
Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tới 4000 năm TCN, người Việt đã xây
dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ
do Hiên Viên dẫn đầu, vượt Hoàng Hà vào chiếm đất Việt, dựng vương triều
Hoàng Đế. Trong vương quốc Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với người
Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ bú sữa mẹ Việt, học tiếng nói
Việt. Do ngôn ngữ Mông Cổ nghèo nên tiếng Việt thành chủ thể của tiếng
nói vương triều. Cùng với thời gian, người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ
lãnh đạo xã hội, đã áp đặt dân chúng nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol
parlance: tính từ đứng trước danh từ, hay như ta vẫn gọi là cách nói ngược.) Trên thực tế, ngôn ngữ của dân cư vương triều Hoàng Đế là tiếng Việt được nói theo văn phạm Mông Cổ.
Sau này, nhà Tần, nhà Hán mở rộng lãnh thổ, ngôn ngữ tại các vùng bị
kiêm tính cũng chuyển hóa theo cách tương tự. Do người Việt sống trên
địa bàn rộng với thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, nên ngôn ngữ bị phân ly
thành nhiều phương ngữ. Trong đó, tiếng nói vùng Quảng Đông (Việt Đông),
Phúc Kiến (Mân Việt) là chuẩn mực nên được gọi là Nhã ngữ với ý nghĩa
ngôn ngữ thanh nhã. Đời nhà Chu, rồi nhà Hán, triều đình khuyến khích
nói theo Nhã ngữ.
Vấn
đề khác cũng cần minh định là ảnh hưởng của chữ viết tới sự hình thành
ngôn ngữ phương Đông. Chữ tượng hình được phát hiện sớm nhất ở văn hóa
Giả Hồ 9000 năm rồi ở văn hóa Bán Pha tỉnh Sơn Tây 6000 năm trước. Khảo
cổ học cũng cho thấy, khoảng 4000-6000 năm cách nay, chữ tượng hình được
khắc trên xẻng đá ở di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây. Chữ Lạc Việt sau đó
được đưa lên đồng bằng Trong Nguồn, bây giờ là Trung Nguyên, vốn là một
trung tâm lớn của người Dương Việt, để khắc lên xương thú và yếm rùa,
về sau được gọi là văn Giáp cốt.
Chữ
viết trên yếm rùa và xương thú là chữ đơn lập, không thể ghép vần.
Tiếng Việt cổ vốn đa âm nên muốn được ký âm buộc phải đơn âm hóa. Do đó,
tại trung tâm đầu não của người Việt, ít nhất là từ Quý Châu Quảng Tây
tới Hà Nam, tiếng nói chuyển dần thành đơn âm. Một vấn đề khác nảy sinh:
tiếng nói thì nhiều nhưng số chữ chế ra có hạn nên chỉ có những tiếng
tiêu biểu mới được ký tự. Do vậy, chữ tượng hình tập hợp được những
tiếng nói tiêu biểu nhất của người Việt. Đây là quá trình độc lập, diễn
ra trong cộng đồng Việt mà người Hoa Hạ từ thời Hoàng Đế tới giữa đời
Thương không biết. Khi vua Bàn Canh chiếm đất Hà Nam, lập nhà Ân (1384
TCN), mới biết chữ Giáp cốt của người Dương Việt. Với nhà nước được tổ
chức tốt, Bàn Canh đã tiếp thu và cải tiến chữ của người Việt để ghi
việc bói toán, cúng tế cùng địa lý, lịch sử (5). Trong triều đình nhà
Ân, những “họa sư”- người vẽ chữ, “bốc sư”- thày bói, người Việt, được
“lưu dụng” làm công việc này. Thay nhà Thương, nhà Chu chuyển sang viết
chữ trên thẻ tre, trên lụa, cũng sử dụng nhiều ông thầy người Việt. Nhà
Tần vốn là bộ lạc người Việt, khi dựng nước đã thể chế chữ Giáp cốt
thành chữ Triện tồn tại tới nay. Như vây, có thể nói, không chỉ sáng tạo
ra chữ Giáp cốt mà người Việt còn tích cực góp phần cải tiến, hoàn
thiện chữ viết. Do đó quá trình đơn âm hóa tiếng nói được đẩy mạnh.
Sau
đời Hán, Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người thiểu số phía Tây thâm
nhập, khiến cho tiếng nói bị pha tạp, theo hướng tăng cường giọng điệu
du mục. Tiếng nói của cư dân trong vương triều thay đổi, dẫn tới việc
người trong nước không hiểu được nhau. Để khắc phục, các vương triều
dùng tiếng nói của kinh đô làm chuẩn mực giao tiếp của triều đình: quan
thoại ra đời. Nhà Đường lấy tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói
chính thức, được gọi là Đường âm. Đường âm là tiếng Việt được người
Tràng An nói thời nhà Đường. Đấy là bộ phận tinh hoa của tiếng Việt được
ký tự bằng chữ vuông. Đường âm được mang sang dạy và giao dịch ở Việt
Nam. Khi giành được quyền tự chủ, nước ta thoát ách đô hộ của phương Bắc
về chính trị, kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, văn tự tượng hình vẫn là chữ
viết chính thống và Đường âm được duy trì dưới tên gọi là chữ Nho, chữ
Thánh hiền. Trong khi đó, quan thoại của Trung Hoa biến cải theo sự thay
đổi của vương triều và kinh đô. Tới giữa thế kỷ trước, tiếng Bắc Kinh
là tiếng nói chính thống của Trung Hoa, chỉ được số lượng nhỏ người
dùng. Nhà Mãn Thanh rồi chính quyền Quốc dân đảng không làm nổi việc
thống nhất ngôn ngữ. Chỉ tới năm 1958, sau gần 20 năm nhà nước Trung Hoa
nỗ lực thực hiện cuộc đồng hóa khốc liệt, tiếng Bặc Kinh mới được phủ
sóng trên phần lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, tới nay trong vùng Nam Dương Tử
vẫn có khoảng 20% từ địa phương, truyền miệng trong dân gian mà không
được ký tự.
Một
vấn đề từ lâu được đặt ra: chữ Nho xuất hiện ở nước ta từ bao giờ? Chưa
ai xác định được ! Chúng tôi không biết, hàng nghìn năm trong nước Văn
Lang, vùng đất bây giờ là Việt Nam, chỉ cách Cảm Tang, Quý Châu khoảng
150 km, có sử dụng chữ tượng hình? Nhưng biết chắc, bộ lạc Thủy, di duệ
của người Lạc Việt ở Quảng Tây, từ thời Tần Hán trốn vào rừng, bị thiểu
số hóa, vẫn giữ được sách cổ ghi bằng chữ Thủy, tương tự Giáp cốt văn
của tổ tiên Bách Việt, gọi là Thủy thư (5). Nay được coi là văn tự hóa
thạch sống, một bảo vật văn hóa nhân loại. Một điều chắc chắn khác là,
muộn nhất, chữ Nho có mặt ở nước ta thời Triệu Vũ Đế. Việc khám phá lăng
mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Châu với rất nhiều di vật khắc chữ Nho chứng tỏ
điều này. Chắc chắn rằng, trong 100 năm xây dựng và bảo vệ Nam Việt, 
nhà Triệu đã dùng chữ Nho trong hành chính, luật pháp và dạy học. Vì
vậy, khi sang nước ta, Mã Viện phát hiện “Luật Giao Chỉ có tới 10 điều
khác luật nhà Hán”(6). Có phần chắc là luật Việt được viết bằng chữ Nho.
Chúng tôi cũng nghĩ rằng, muộn nhất, tiếng Việt vùng đồng bằng và trung
du Bắc Bộ và Trung Bộ, được đơn âm hóa từ thời nhà Triệu. Và cùng với
việc phổ biến chữ Nho, tiếng Kinh ngày càng trở nên đơn âm.
Một
câu hỏi: khi sang nước ta, người của Triệu Đà rồi quan quân nhà Hán nói
tiếng gi? Sử ký viết, “Đà giết trưởng lại người Tần rồi đưa người của
mình lên thay.” Triệu là một tiểu quốc của người Việt, nên Triệu Đà và
tâm phúc của ông là người Việt (7). Xuống Giang Nam, người của ông gặp
tiếng Việt Quảng Đông, Mân Việt, thứ tiếng Việt thanh nhã chuẩn mực.
Thời Hán cũng tương tự, vì ngoài một số không nhiều quan cao cấp người
phương Bắc thì tới nước ta phần lớn là người Giang Nam. Họ là người
Việt, cho dù có nói ngược theo cách nói Hoa Hạ thì vẫn là tiếng Việt. Vì
lẽ đó, rất có thể hai bên gần như hiểu được nhau. Vì vậy, việc học chữ
Nho khá dễ dàng.
Về
sau, qua mỗi thời đại, tiếng của quan quân phương Bắc lại khác đi. Đến
thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An được dùng làm quan thoại.
Thực chất, đó là tiếng Việt ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường. Điều này
cho thấy một bộ phận tiếng Việt trải qua quá trình biến đổi dài từ đa
âm, không thanh điệu, tới đây đã thành đơn âm và sáu thanh. Có lẽ, tiếng
nói của bộ phận cư dân mà sau này là người Kinh cũng được chuyển hóa
như vậy?
Sau
thời Đường, nước ta độc lập, chữ Nho trở thành quốc ngữ. Theo dòng thời
cuộc, tiếng nói của người Trung Hoa thay đổi, ngày càng xa gốc Việt.
Chẳng những người Việt không hiểu tiếng người phương Bắc mà người Trung
Quốc cũng không còn nói được Đường âm. Di sản vô giá thơ Đường chỉ còn
người Việt Nam thưởng thức trong âm điệu tuyệt vời.
Từ
phân tích trên chứng tỏ rằng, tiếng Việt không những không vay mượn mà
trái lại, còn là gốc gác, là mẹ đẻ của ngôn ngữ Trung Hoa. Cái mà nay
người ta quen gọi là “từ Hán Việt” là sự lầm lẫn lớn bởi chưa hiểu cội
nguồn sinh học cũng như văn hóa dân tộc, trong đó có quá trình hình
thành tiếng nói và chữ viết.
IIVai trò của lớp từ Việt cổ trong văn hóa dân tộc
Như
đã nói ở trên, tiếng thì nhiều nhưng chữ làm ra quá ít nên tổ tiên ta
bắt buộc phải chọn thật kỹ những tiếng cần ký tự. Đó là những tiếng có
nội dung sâu sắc, hàm chứa ý nghĩa uyên thâm, mà sau này được gọi là ngôn ngữ hàn lâm.
Dù có áp dụng cách tạo từ đồng âm dị nghĩa thì cũng còn vô số tiếng
không được ký âm vì không đủ chữ. Ở phía bắc Trung Hoa, dần dần những
tiếng không được ký tự bị mai một.
Trong
khi đó, ở miền nam, chúng trở thành từ địa phương, được truyền miệng
trong dân gian. Ở Việt Nam tình hình tương tự. Khi làm chủ đất nước,
người Việt thấy quá nhiều tiếng không có chữ, nên vào đời Trần đã mô
phỏng chữ Nho để tạo ra chữ Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, chữ Nôm không
được coi là văn tự chính thức. Mọi giao dịch hành chính đều phải dùng
chữ Nho, nên nhiều địa danh phải chuyển sang chữ Nho, việc làm bất khả
kháng ngày xưa khiến nay nhiều người bức thúc.
Một
vấn đề cũng cần bàn cho ra lẽ, đó là tìm tên gọi xác đáng cho lớp từ
đặc biệt này. Thoạt kỳ thủy, nó là Đường âm. Tới lúc nào đó được gọi là
chữ Nho. Ở miền Nam cho tới năm 1975, gọi là cổ văn. Vào thập niên 1960,
các học giả miền Bắc gọi là “từ Hán Việt”. Một thời gian dài nửa thế kỷ
ta chấp nhận tên gọi đó vì tưởng rằng hợp lý. Nhưng bản thân khái niệm
“từ Hán Việt” lại mâu thuẫn và vô nghĩa. Thuật ngữ này hàm ý: chữ của
Hán, còn cách đọc của Việt, ghép lại thành “từ Hán Việt.” Nhưng như phát
hiện của Nguyễn Tài Cẩn, cách đọc đó chính là tiếng nói ở kinh đô Tràng
An thời nhà Đường! Như vậy, theo cách hiểu hiện nay, cả chữ viết và
cách đọc đều của người Hán, nên không thể là “từ Hán Việt!”. Nay ta thấy
không thể tiếp tục dùng thuật ngữ sai lầm cũ. Nhưng dùng tên nào thích
hợp hơn?
Đường
âm là đúng nhưng bây giờ không thể trở lại tên gọi này vì đó là sản
phẩm của một thời điểm lịch sử. Tiếng Hán không đúng vì đó không phải là
tiếng nói thời nhà Hán, càng không phải tiếng nói của người Trung Hoa
hôm nay. Có lẽ tên gọi chữ Nho phù hợp hơn cả, vì nó có
nghĩa là chữ của nhà nho, sâu xa hơn, như phát hiện của triết gia Kim
Định, là sản phẩm của văn hóa Việt nho nguồn cội. Sở dĩ gọi là “từ Hán
Việt” vì người ta lầm tưởng đó là sản phẩm vừa của Hán vừa của Việt. Tuy
nhiên cách hiểu như thế vừa không chính xác vừa gây phản cảm, đè nặng
lên tâm trí chúng ta một cảm giác lệ thuộc bên ngoài. Thực chất, đó
không phải “từ Hán Việt” mà là tiếng Việt cổ. Khác với
nhiều ngữ khác, tiếng cổ là tử ngữ, thì trong ngôn ngữ Việt, tiếng Việt
cổ vô cùng sống động. Lý do nó trở thành cổ ngữ là vì lịch sử dân tộc có
biến động lớn, chữ Nho bị bãi bỏ để thay bằng thứ chữ viết khác. Mấy
trăm năm trước, khi chuyển giao chữ La Tinh quốc ngữ cho chúng ta, một
học giả phương Tây từng nói đại ý: Chúng ta trao cho người Annam
một thứ chữ dễ học, giúp họ nhanh chóng bắt kịp đà văn minh. Nhưng chắc
chắn nó sẽ làm cho thế hệ tương lai của họ cắt đứt với nguồn cội.
 Hôm
nay, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực với toàn bộ nền văn hóa
Việt. Về ngôn ngữ thì đó là lớp lớp người Việt không hiểu tiếng nói của
tổ tiên, như tác giả Trần Kinh Nghị than phiền. Vì vậy, chúng tôi cho
rằng, cần nhìn nhận lại gia sản quý giá này để sử dụng tốt nhất.
III. Kết luận
Hàng
ngàn năm nay do ngộ nhận nên ta cho rằng, bộ phận tinh hoa, quan trọng
nhất của tiếng Việt là đồ vay mượn! Sự lầm lẫn này đã tạo nên nỗi đau
ngàn năm khi ta vừa căm ghét một công cụ mà trong quá khứ kẻ thù dùng để
đồng hóa, nô lệ mình lại vừa không thể chối bỏ! Không thể không dùng
nhưng rồi mỗi khi dùng lại day dứt nỗi niềm cay đắng mặc cảm vay mượn!
Nay
chúng ta phát hiện ra sự thật: không hề có cái gọi là “Từ Hán Việt”! Đó
chính là chữ Việt, tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo trong quá khứ.
Việc khẳng định bản quyền tiếng Việt cổ là khám phá có ý nghĩa đặc biệt,
nó giúp ta tự tin, làm chủ tài sản vô giá của dân tộc. Vấn đề hiện nay
là tuyên truyền để mọi người cùng hiểu. Công việc quan trọng khác là
nghiên cứu sử dụng vốn tài sản này, làm phong phú ngôn ngữ, góp phần xây
dựng văn hóa dân tộc.
Cái
to nhất ngăn trở ta dám nhận lại tài sản vô giá này là thói nô lệ, thói
tự kỷ ám thị nặng nề khiến ta vô thức đẩy nhiều di sản quý báu của tổ
tiên cho người ngoài để rồi cúc cung làm chú học trò ngu ngơ, bị đè bẹp
dưới cái bóng hoang tưởng!
Một khi nhận ra chủ quyền, ta sẽ làm gì với tài sản vô giá này?
Nhiều
người đã hiểu cơ sự nên kiến nghị khôi phục việc học chữ Nho. Đấy là
việc không thể không làm. Trước hết vì giá trị lớn lao của chữ Nho. Tính
triết lý sâu xa, ý nghĩa thâm thúy của nó khác với bất cứ chữ viết nào,
giúp người học rèn trí thông minh, luyện tư duy… Chỉ điều này mới giúp
chúng ta tiếp nối với truyền thống, tránh được mối nguy mất gốc như học
giả nước ngoài cảnh báo mấy trăm năm trước. Đó là việc cần chủ trương và
kế hoạch lớn. Trước mắt, việc có thể làm ngay là, trong chương trình
tiếng Việt phổ thông, nên bổ sung một số tiết giảng tiếng Việt cổ, nhằm giải nghĩa những từ thường dùng để học sinh hiểu và sử dụng đúng, đồng thời tập cho họ cách tra Từ điển tiếng Việt.
Chúng
tôi xin mạo muội đề nghị, cần một cuộc cách mạng loại bỏ thuật ngữ “từ
Hán Việt” khỏi ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài.
Madrak, 1. 12. 2013
copy từ : Hữu Nguyên: Không có cái gọi là "từ Hán Việt":