22/10/2013
Hà Văn Thùy
Người bạn hỏi: “Thiên hạ đang nhao nhác về
Học viện Khổng Tử, ông thấy thế nào, có đáng ngại không?”
Tôi nói: “Đến bây
giờ, khi đã có Nhà văn hóa Pháp, Viện Gớt, Hội đồng Anh… mà xứ này chưa có Học
viện Khổng Tử mới là không bình thường. Còn chuyện ngại, theo tôi vừa không,
vừa có!”
Lý do không ngại
Nếu là cơ quan lập ra để trao đổi văn hóa nhằm hiểu biết lẫn nhau
đúng như tôn chỉ của nó, “dụng khẩu bất dụng thủ” (dùng lời, không dùng nắm
đấm) thì là điều tốt. Việt Nam
và Trung Quốc vốn “đồng chủng đồng văn”. Từ nghìn năm trước, Khổng Tử được
người Việt coi là thánh, là vạn thế sư biểu, trên nước ta, khắp Bắc Trung Nam chỗ nào chả
có miếu Văn thánh… Vậy việc lập Viện Khổng Tử là tiếp nối truyền thống xưa, đâu
có gì lạ?
Có điều trước kia, do chưa hiểu cội nguồn lịch
sử văn hóa Trung Quốc cũng như Việt Nam nên người Việt thường lép vế trước ông
thầy Tàu. Nhưng nay thì khác. Nếu có một tao đàn để trao đổi học thuật nghiêm
túc, chúng ta không thiếu chuyện để nói.
Xin ghi lại cuộc luận đàm văn hóa giữa Trạng Quỳnh và sứ Tàu thời
hiện đại.
“Sứ: Tiền chủ hậu khách, xin Trạng nói trước!
Quỳnh: Tôi mạn phép thưa với quan Sứ là có lẽ Cụ Khổng không biết
gốc gác nước Lỗ của Cụ từ đâu?
Sứ: Sao ngài nói vậy. Là bậc thánh nhân trước tác kinh sử lẽ nào
Cụ lại không rành…
Quỳnh: Tôi tin Cụ không biết bởi lẽ, nếu biết, Cụ đã không gọi
người phía Nam
là man di! Theo thiển kiến của kẻ ngu này thì, trước thời Chu, nước Lỗ chỉ là
một trong 800 tiểu quốc hạt tiêu hạt cải, phần lớn là của người Việt. Một nhúm
người Dương Việt đặt tên nước của mình là Rõ, có nghĩa sáng rõ, rực rỡ. Nhưng
khi người Hoa Hạ làm chủ, không phát âm được vần R nên phải nói trại thành Lõ rồi thành Lỗ. Nếu biết cội nguồn như vậy,
chắc Cụ đã không…
Sứ: Dà, à…
Quỳnh: Ngay cả việc giảng kinh Thi, Cụ Khổng cũng trật lấc…
Sứ: Sao ngài dám…
Quỳnh: Xin thưa, quan Sứ xem đây, câu cuối bài Quan thư, cụ ghi
“Quân tử hảo cầu.” Đấy là quân tử Tàu chứ đâu phải quân tử Việt?! Nguyên văn
tiếng Việt của nó là “Quân tử hiếu kều!” Quân tử Việt, tự nhiên, đa tình,
thấy giữa bãi vắng, một thục nữ yểu điệu, thì chàng ta “hiếu kều” tức là khoái
động thủ, muốn nắm tay ve vuốt, đâu có chịu đứng như phỗng mà cầu mong?! Sau
này, khi san định, Cụ Khổng, một phần vì không đủ chữ, một phần vì tư tưởng
thanh giáo, chuyển thành “hảo cầu,” thật vô duyên… Mà như kẻ ngu này hiểu thì
không chỉ Cụ Khổng mà hàng tỷ người Trung Hoa đâu đã hiểu hết được thứ tiếng mà
dân quý quốc vẫn nói!
Sứ: Dà, dà! Ngài không được xúc phạm đại quốc!
Quỳnh: Thưa không, tôi chỉ nói sự thật, còn nếu tôi sai, xin quan
Sử chỉ bảo! Thế xin hỏi quan Sứ: Từ Mông Cổ từ đâu ra, có nghĩa là gì?
Sứ: Thế mà cũng hỏi, đó là từ tổ tiên chúng tôi đặt ra để gọi
người Mông Cổ!
Quỳnh: Ngài nói đúng, nhưng chỉ đúng ở ngọn. Người Việt, chủ nhân
đầu tiên của Trung Quốc, gọi những người sống trên đồng cỏ phía bắc Hoàng Hà là
người Đồng Cỏ. Sau này do người Hoa Hạ không nói được vần Đ nên đọc trại Đồng thành Mồng rồi thành Mông, còn Cỏ thành Cổ! Đồng Cỏ có có ý
nghĩa, còn Mông Cổ thì vô nghĩa, cũng vô nghĩa như tên nước Lỗ của cụ Khổng vậy!
Sứ: Thật vậy sao, nghe cũng có lý, tiếc là ngộ hổng piếc!
Quỳnh: Xin hỏi quan sứ, ông vua cuối của nhà Hạ và nhà
Thương tên gì?
Quan sứ trố mắt nhìn Trạng nghi ngại, sợ bị mắc lỡm. Nhưng thấy vẻ
mặt Trạng thực thà, bèn nói.
Sứ: Ngài không định bỡn tôi chứ? Đó là Kiệt và Trụ, ai mà
không hay!
Quỳnh: Vâng, xin hỏi quan Sứ câu nữa, vậy ý nghĩa hai cái tên đó
là gì?
Sứ suy nghĩ lúc lâu rồi nói: Người Trung Quốc thường đặt tên theo
ý nghĩa, nhưng đôi khi cũng không. Tôi nghĩ, tên hai vị này không có gì đặc biệt.
Quỳnh: Vậy là quan Sứ không biết rồi, vì là con cháu người Việt
nên thời đó người Hoa Hạ nói tiếng Việt. Thấy vua nhà Hạ hoang dâm nên khi
chết, gọi ông ta là Cặc, còn ông vua cuối nhà Thương là Đụ. Người về sau do
không nói được những từ như vậy nên gọi trại thành Kiệt, Trụ! Thế quan Sứ
có biết, Lưu Bang thực ra nhà nghèo, ít học nên không có tên mà vì là thứ ba
trong nhà nên được gọi là Lưu Ba. Sau này khi làm vua mới nối thêm vần NG nữa
thành Lưu Bang không? Còn trên đời chẳng làm gì có cái tên kỳ quặc Câu Tiễn. Đó
là tên ông vua người Việt là Cu Tí rồi sau gọi theo Đường âm thành cái tên Câu
Tiễn! Nhân đây, cũng xin hỏi quan Sứ: Từ Trung Nguyên từ đâu ra vậy?
Sứ: Đó là nơi phát tích của người Hoa Hạ chúng tôi, là đồng bằng
miền Trung Hoàng Hà, từ đó mà có tên Trung Quốc…
Quỳnh: Ngài nói không sai. Nhưng xin hỏi cái tên gốc của Trung
Nguyên là gì, do ai đặt?
Sứ: Ngài hỏi gì kỳ. Nó là thế, còn gốc với ngọn gì, đất Trung Quốc
phải do người Trung Quốc đặt tên chớ còn ai vào đây nữa!
Quỳnh: Xin thưa, vậy Ngài không biết rằng trong sách Trung Quốc dân tộc sử của tiên sinh Chu Cốc Thành nói rằng,
người Việt vào Trung Quốc trước người Hán sao? Sau khi khai phá đồng bằng miền Trung
Hoàng Hà, người Việt đặt tên con sông lớn ở đấy là sông Nguồn còn đồng bằng thì
được gọi là Trong Nguồn. Khi chiếm vùng đất này, ban đầu người Hoa Hạ vẫn gọi
theo người Việt, nhưng sau đó, vào thời Đường, chuyển âm Trong thành Trung, Nguồn thànhNguyên! Xin được hỏi
quan sứ điều nữa: vì sao ngôn ngữ Trung Hoa hiện nay đơn âm?
Sứ: (mừng ra mặt, có vẻ hý hửng) nói dõng dạc: Điều này thì tôi
biết chắc như đinh đóng cột. Đó là bậc kỳ lão của chúng tôi, tiên sinh Dương
Chấn Ninh, không chỉ là nhà Nobel vật lý mà còn là nhà kinh Dịch kiệt xuất từng
phát biểu: Như mọi ngôn ngữ khác, tiếng Trung Quốc lúc đầu đa âm nhưng Kinh Dịch làm cho ngôn ngữ Trung
Hoa trở thành đơn âm!
Quỳnh: Xin lỗi ngài, vị giáo sư lỗi lạc của Ngài cũng trật lấc.
Không phải Kinh Dịch làm cho ngôn ngữ Trung Hoa trở thành đơn âm mà ngược lại,
Kinh Dịch được ghi bằng ký hiệu nhị phân là vạch đứt vạch liền có trước. Sau
đó, khi chữ vuông ra đời, Văn Vương, Khổng Tử mới dùng chữ để giải mã Dịch bằng
cách thêm vào Hào từ, Thoán từ, Thập dực giúp nhiều người hiểu được kinh Dịch…
Nhân đây cũng xin được thưa với quan Sứ, là dù đọc nát nhị thập tứ sử thì cho
tới nay, tôi đố ngài biết được nguồn gốc người Trung Quốc ở đâu, tiếng Trung
Quốc từ đâu ra và chữ Trung Quốc do ai sáng tạo?
Sứ: (mặt xịu xuống buồn xo rồi cất giọng thành thực): Phải nói
điều này kể cũng xấu hổ, nhưng không thể nói khác, là không chỉ ngộ mà toàn thề
tồng pào của ngộ cũng hông piếc, xin Trạng chỉ giáo!
Quỳnh: Xin lỗi quan Sứ, bây giờ tôi phải về, ra chợ mua mớ rau
muống nấu cơm, kẻo mụ vợ tôi tối ngày ngồi coi phim Tàu bỏ tôi nhịn đói! Hẹn
tái ngộ, tôi sẽ cho Sứ biết, còn nhiều hơn những điều như thế!”
Trên đây chỉ là câu chuyện hư cấu, nhưng thực tế, chúng ta có
nhiều điều để nói với người Trung Hoa mà khi nghe ra, những người còn luơng tri
sẽ hướng về đất Việt như cội nguồn và nhận ra, họ và chúng ta cùng một dòng máu.
Có câu chuyện đáng tiếc thế này. Tôi mới đọc trên mạng bài viết
của một học giả sắc tộc Môn ở Miến Điện. Biết rằng ngôn ngữ Môn là hệ ngôn ngữ
lớn ở Đông Á và người Môn là tộc lớn nhưng rồi bị mất đất, mất luôn tổ quốc nên
ông đau đáu kiếm tìm đất tổ của mình. Một số nhà khoa học nói rằng, nơi phát
tích của người Môn là Bắc Bộ Việt Nam
nhưng ông không tin vì Annam
nhỏ bé và bị nô lệ đâu xứng đáng là quê hương của dân tộc ông! Ông tin vào một
số học giả phương Tây khác cho rằng, nam Trường Giang là nơi phát tích của
người Môn. Vì vậy, trong dịp sang Trung Quốc, ông đã tới nam Trường Giang với
lòng thành kính của kẻ hành hương tìm về cố xứ. Cảm động về mối chân tình của
ông nhưng thương ông “mồ cha không khóc lại khóc đống mối” tôi định viết cho ông
lá thư nói rằng:
“Bằng nguồn ADN lấy từ chính máu huyết đồng bào của ông và đồng
bào tôi, khoa học xác minh rằng, bảy vạn năm trước, tổ tiên của ông và của tôi
là người Việt cổ chủng Indonesian, được sinh ra tại thềm Biển Đông của Việt
Nam, lúc đó là đồng bằng Hainanland. Khoảng năm vạn năm trước, có những nhóm
Việt cổ đi về hướng tây, tới đất Mianmar thành người Môn bản địa. Nhóm đi xa
hơn, tới Ấn Độ thành người Dravidian. Sau đó, do khí hậu phía bắc ấm lên, người
Việt đi lên khai phá đất Trung Hoa. Rồi người Dravidian bị người Arian xâm
lăng, người Môn bị người Miến chiếm đất, trở thành người thiểu số. Người Lạc
Việt Indonesian đa số, giữ vai trò lãnh đạo phương Đông về xã hội và ngôn ngữ.
Do chưa hiểu điều này và do nhận thấy người Môn và người Khmer giữ được ngôn
ngữ gốc nên học giả phương Tây gọi là hệ ngôn ngữ Môn-Khmer nhưng thực ra đó là
ngôn ngữ Việt cổ. Tổ tiên người Môn không hề sống ở nam Dương Tử rồi bị đẩy
sang đất Miến như ông đã tưởng lầm. Khoa học cho thấy, quê hương người Môn là
Bắc bộ, hay nói đúng hơn là thềm Biển Đông của Việt Nam.” Nhưng thật tiếc, vị học giả đã qua đời
ba năm trước!
Nếu sự thật được phổ biến, chắc nhiều người Trung Hoa sẽ hiểu đâu
là nguồn cội của mình.
Chính vì thế, Học viện Khổng tử không có gì đáng ngại.
Lý do để ngại
Có không ít lý do để ngại. Đó là việc nhà cầm quyền Bắc Kinh theo
thói quen cố hữu làm những chuyện không đàng hoàng, vì đó là bản nghệ của họ.
Lý do quan trọng hơn là vì “đã có Đảng và nhà nước lo”, người ta gạt nhân dân
đầy trí tuệ ra ngoài, đặt vào đó những kẻ bằng cấp cùng mình nhưng cũng cùng
mình dốt nát, ăn không nên đọi, nói không nên lời, suốt ngày khom lưng cúc cung
nhận những thánh chỉ từ người Tàu để làm những điều tổn dân hại nước! Điều này
thực tế đã diễn ra. Mấy năm trước, một tiến sĩ người Việt ở Úc viết cuốn Khoa học soi sáng lịch sử, được
NXB Lao Động in nhưng vì động chút xíu tới lông chân “ông bạn 16 chữ vàng”, nó
bị đem nghiền bột. Còn tôi, kỳ công viết được cuốn Khám phá lại lịch sử Trung Hoa,
trình bày những tri thức mới nhất về cội nguồn sinh học, về lịch sử, văn hóa
Trung Hoa đem tới ba nhà xuất bản mà không đắt vì “nhạy cảm nên cơ quan QLXB
nói nên để lại”! Khi người dân vừa bị trói tay vừa bị bít miệng thì thua trên
sân nhà là cái chắc. Lo là phải!
H.V.T.