Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013



 Chính phủ nợ Vinashin?

 Phạm Chí Dũng
Bảo lãnh nợ = Nhận nợ
Sau một thời gian lắng tiếng canh chừng, giới lãnh đạo chính phủ đã lần đầu tiên hé lộ một xác nhận về mối liên đới nợ nần với Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam: Chính phủ đứng ra bảo lãnh cho công cuộc phát hành trái phiếu có giá trị 600 triệu USD của Vinashin, hầu mong thu ngoại tệ trả nợ cho con tàu đắm này.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cho rằng Chính phủ chỉ bảo lãnh nợ chứ không phải “nhận nợ”.
Nhưng dưới góc nhìn đa chiều của dư luận xã hội, xác nhận như vậy của một quan chức cao cấp trong Chính phủ vẫn luôn bị xem là biểu hiện hoàn toàn không bình thường giữa cơ quan điều hành cao nhất quốc gia với con nợ bị xem là “hại dân hại nước”.
Tại sao Chính phủ đứng ra bảo lãnh cho Vinashin phát hành 600 triệu USD trái phiếu quốc tế để tái cấu trúc khoản nợ doanh nghiệp tự vay trước đây trong khi cân đối ngân sách đang quá khó khăn? Đó là câu hỏi mà dư luận, báo chí trong nước và cả các đại biểu trong kỳ họp cuối cùng của năm 2013 đang xoáy vào về “nghĩa vụ trả nợ” của Chính phủ, về trách nhiệm của những người chịu trách nhiệm trực tiếp và gián tiếp đối với số nợ ít nhất 86.000 tỷ đồng của Vinashin.
Tương lai “Chính phủ bảo lãnh cho Vinashin” của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cũng gián tiếp xác nhận phần trách nhiệm đầy nghi vấn trên.
Sự nghi ngờ của người dân thật ra đã có quá nhiều tiền lệ trong lịch sử mối quan hệ bị nghi ngờ là khuất tất giữa Vinashin với giới chức Chính phủ. Vào lần này, người dân lại có thêm một câu hỏi đắng ngắt: món nợ 600 triệu USD là do Vinashin tự vay, không có bảo lãnh từ trước như món nợ trái phiếu Chính phủ 750 triệu USD trước đó mà Chính phủ đã hoàn toàn phải đứng ra gánh chịu; vậy tại sao Chính phủ vẫn phải và dường như bằng mọi cách phải che chắn cho Vinashin, ngược với các tuyên bố trước đó về cách giải quyết các khoản nợ đối với con nợ đã thành án quốc gia này?
Như một thường thức về kinh tế, giới chuyên gia tài chính trong và ngoài nước đều nằm lòng việc nhận bảo lãnh nợ hay nhận nợ đều không có gì khác biệt. Trường hợp Vinashin có vẻ càng điển hình hơn: Bảo lãnh nợ hay thanh toán là Cam kết trả nợ hay thanh toán vô điều kiện bởi Người bảo lãnh (tức Chính phủ) thay Người được bảo lãnh (Vinashin) cho chủ nợ hay người Thụ hưởng (các định chế tài chính quốc tế), bất kỳ khi nào người được bảo lãnh không thực hiện cam kết và trách nhiệm trả nợ và thanh toán của họ vì bất kỳ lý do gì…
Quay ngược thời gian, 600 triệu USD mà Vinashin nợ nước ngoài chỉ là một phần nhỏ trong “gánh nặng sơn hà” mà đối tượng bị xem là “sâu chúa” này đã gây ra. Vào năm 2012, trong khi Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh cố thuyết phục dư luận rằng Vinashin thực chất “chỉ” lỗ khoảng 13.000 tỷ đồng, còn con số 86.000 tỷ đồng là nợ chứ không phải thất thoát, một số đại biểu Quốc hội như ông Lê Như Tiến, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Quốc hội, đã luôn dùng đến từ “thất thoát” cho 107.000 tỷ đồng tại “tập đoàn kinh tế quốc doanh chủ đạo” này, trong đó có trên 40.000 tỷ đồng là nợ nước ngoài và hơn 60.000 tỷ đồng từ nợ trong nước.

 SỞ HỮU ĐẤT ĐAI VÀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC

KIẾN NGHỊ Chưa thông qua dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đối với nội dung quy định về quyền sở hữu đất đai – Trịnh Minh Tân

  
FILED UNDER  TRỊNH MINH TÂN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
————————————
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 10 năm 2013
KIẾN NGHỊ
Chưa thông qua dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đối với nội dung quy định về quyền sở hữu đất đai 
Kính gửi:
- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
- Các đại biểu Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6

Họ và tên người kiến nghi : Trịnh Minh Tân Sinh năm 1955 tại Hà Tây
Nghề nghiệp : Luật sư thuộc Đoàn luật sư Tp. Hồ Chí Minh
Thường trú : 22 đường 53, phường Bình Thuận, quận 7, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại : 08 6262 4841
Lý do kiến nghị:
Qua các ý kiến góp ý cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tôi thấy còn rất nhiều ý kiến trái chiều cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và làm rõ về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Cụ thể là vấn đề về quyền sở hữu đất đai.
Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và quy định quyền sử dụng đất đối với cá nhân và hộ gia đình đã bộc lộ nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế, không kích thích được sản xuất, sai với lý luận và trái với quy định của Bộ luật dân sự hiện hành về quyền sở hữu tài sản.
Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân đã và sẽ tiếp tục kéo theo nhiều hệ lụy đối với người dân và với cả Nhà nước. Người hưởng lợi lại chính là những cá nhân hoặc các nhóm cá nhân (mà trong nhiều phát biểu, lãnh đạo Đảng và Nhà nước nói là các “nhóm lợi ích”).
Quy định về quyền sở hữu đất đai là vấn đề hệ trọng, liên quan đến dân sinh và dân quyền, đến sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Các vị đại biểu Quốc hội cần nắm được nhiều thông tin và cả những kiến thức về quyền sở hữu nói chung và quyền sở hữu đất đai nói riêng để xác quyết vấn đề hệ trọng này hợp với lòng dân.
Có nhiều đại biểu Quốc hội là những chuyên gia luật, đã từng công tác trong các cơ quan pháp luật nên tôi nghĩ rằng các vị sẽ có ý kiến thiết thực, trí tuệ để Quốc hội quyết định vấn đề về quyền sở hữu đất đai đúng với lý luận và phù hợp với thực tiễn.
Là một cử tri, tôi sẵn sàng trao đổi trực tiếp, thẳng thắng với các đại biểu Quốc hội về vấn đề này. Có lẽ dễ hơn là với những đại biểu Quốc hội đã từng là bạn học cùng lớp, cùng trường, cùng thầy, cùng nghề như đại biểu Tòng Thị Phóng (phó Chủ tịch quốc hội), đại biểu Hà Công Long (phó Ban dân nguyện, Cơ quan chuyên môn trực thuộc UBTV Quốc hội), đại biểu Đỗ Văn Đương (ủy viên thường trực Ủy ban tư pháp của Quốc hội), …
Việc sửa đổi Hiến pháp không nhất thiết phải sửa đổi tất cả các nội dung trong cùng một kỳ họp hoặc trong một khóa Quốc hội, đặc biệt là vấn đề về quyền sở hữu đất đai còn nhiều tranh cãi.
Do còn nhiều ý kiến trái chiều nên theo tôi, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về nội dung quyền sở hữu đất đai và việc sửa đổi Luật đất đai nên được dời lại để Quốc hội khóa XIV quyết định sau khi đã có Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12.
Trân trọng kính chào ông Chủ tịch và các vị đại biểu Quốc hội!
Người kiến nghị
Luật sư Trịnh Minh Tân
 Nguồn: Tác giả gửi trực tiếp cho Cùng Viết Hiến Pháp

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Với viện Khổng Tử


 

  22/10/2013

Với học viện Khổng Tử

Hà Văn Thùy
Người bạn hỏi: “Thiên hạ đang nhao nhác về Học viện Khổng Tử, ông thấy thế nào, có đáng ngại không?”
Tôi nói: “Đến bây giờ, khi đã có Nhà văn hóa Pháp, Viện Gớt, Hội đồng Anh… mà xứ này chưa có Học viện Khổng Tử mới là không bình thường. Còn chuyện ngại, theo tôi vừa không, vừa có!”
Lý do không ngại
Nếu là cơ quan lập ra để trao đổi văn hóa nhằm hiểu biết lẫn nhau đúng như tôn chỉ của nó, “dụng khẩu bất dụng thủ” (dùng lời, không dùng nắm đấm) thì là điều tốt. Việt Nam và Trung Quốc vốn “đồng chủng đồng văn”. Từ nghìn năm trước, Khổng Tử được người Việt coi là thánh, là vạn thế sư biểu, trên nước ta, khắp Bắc Trung Nam chỗ nào chả có miếu Văn thánh… Vậy việc lập Viện Khổng Tử là tiếp nối truyền thống xưa, đâu có gì lạ?
Có điều trước kia, do chưa hiểu cội nguồn lịch sử văn hóa Trung Quốc cũng như Việt Nam nên người Việt thường lép vế trước ông thầy Tàu. Nhưng nay thì khác. Nếu có một tao đàn để trao đổi học thuật nghiêm túc, chúng ta không thiếu chuyện để nói.
Xin ghi lại cuộc luận đàm văn hóa giữa Trạng Quỳnh và sứ Tàu thời hiện đại.
“Sứ: Tiền chủ hậu khách, xin Trạng nói trước!
Quỳnh: Tôi mạn phép thưa với quan Sứ là có lẽ Cụ Khổng không biết gốc gác nước Lỗ của Cụ từ đâu?
Sứ: Sao ngài nói vậy. Là bậc thánh nhân trước tác kinh sử lẽ nào Cụ lại không rành…
Quỳnh: Tôi tin Cụ không biết bởi lẽ, nếu biết, Cụ đã không gọi người phía Nam là man di! Theo thiển kiến của kẻ ngu này thì, trước thời Chu, nước Lỗ chỉ là một trong 800 tiểu quốc hạt tiêu hạt cải, phần lớn là của người Việt. Một nhúm người Dương Việt đặt tên nước của mình là Rõ, có nghĩa sáng rõ, rực rỡ. Nhưng khi người Hoa Hạ làm chủ, không phát âm được vần R nên phải nói trại thành  rồi thành Lỗ. Nếu biết cội nguồn như vậy, chắc Cụ đã không…
Sứ: Dà, à…
Quỳnh: Ngay cả việc giảng kinh Thi, Cụ Khổng cũng trật lấc…
Sứ: Sao ngài dám…
Quỳnh: Xin thưa, quan Sứ xem đây, câu cuối bài Quan thư, cụ ghi “Quân tử hảo cầu.” Đấy là quân tử Tàu chứ đâu phải quân tử Việt?! Nguyên văn tiếng Việt của nó là “Quân tử hiếu kều!”  Quân tử Việt, tự nhiên, đa tình, thấy giữa bãi vắng, một thục nữ yểu điệu, thì chàng ta “hiếu kều” tức là khoái động thủ, muốn nắm tay ve vuốt, đâu có chịu đứng như phỗng mà cầu mong?! Sau này, khi san định, Cụ Khổng, một phần vì không đủ chữ, một phần vì tư tưởng thanh giáo, chuyển thành “hảo cầu,” thật vô duyên… Mà như kẻ ngu này hiểu thì không chỉ Cụ Khổng mà hàng tỷ người Trung Hoa đâu đã hiểu hết được thứ tiếng mà dân quý quốc vẫn nói!
Sứ: Dà, dà! Ngài không được xúc phạm đại quốc!
Quỳnh: Thưa không, tôi chỉ nói sự thật, còn nếu tôi sai, xin quan Sử chỉ bảo! Thế xin hỏi quan Sứ: Từ Mông Cổ từ đâu ra, có nghĩa là gì?
Sứ: Thế mà cũng hỏi, đó là từ tổ tiên chúng tôi đặt ra để gọi người Mông Cổ!
Quỳnh: Ngài nói đúng, nhưng chỉ đúng ở ngọn. Người Việt, chủ nhân đầu tiên của Trung Quốc, gọi những người sống trên đồng cỏ phía bắc Hoàng Hà là người Đồng Cỏ. Sau này do người Hoa Hạ không nói được vần Đ nên đọc trại Đồng thành Mồng rồi thành Mông, còn Cỏ thành Cổ! Đồng Cỏ có  có ý nghĩa, còn Mông Cổ thì vô nghĩa, cũng vô nghĩa như tên nước Lỗ của cụ Khổng vậy!
Sứ: Thật vậy sao, nghe cũng có lý, tiếc là ngộ hổng piếc!
Quỳnh:  Xin hỏi quan sứ, ông vua cuối của nhà Hạ và nhà Thương tên gì?
Quan sứ trố mắt nhìn Trạng nghi ngại, sợ bị mắc lỡm. Nhưng thấy vẻ mặt Trạng thực thà, bèn nói.
Sứ:  Ngài không định bỡn tôi chứ? Đó là Kiệt và Trụ, ai mà không hay!
Quỳnh: Vâng, xin hỏi quan Sứ câu nữa, vậy ý nghĩa hai cái tên đó là gì?
Sứ suy nghĩ lúc lâu rồi nói: Người Trung Quốc thường đặt tên theo ý nghĩa, nhưng đôi khi cũng không. Tôi nghĩ, tên hai vị này không có gì đặc biệt.
Quỳnh: Vậy là quan Sứ không biết rồi, vì là con cháu người Việt nên thời đó người Hoa Hạ nói tiếng Việt. Thấy vua nhà Hạ hoang dâm nên khi chết, gọi ông ta là Cặc, còn ông vua cuối nhà Thương là Đụ. Người về sau do không nói được những từ như vậy nên gọi trại thành Kiệt, Trụ!  Thế quan Sứ có biết, Lưu Bang thực ra nhà nghèo, ít học nên không có tên mà vì là thứ ba trong nhà nên được gọi là Lưu Ba. Sau này khi làm vua mới nối thêm vần NG nữa thành Lưu Bang không? Còn trên đời chẳng làm gì có cái tên kỳ quặc Câu Tiễn. Đó là tên ông vua người Việt là Cu Tí rồi sau gọi theo Đường âm thành cái tên Câu Tiễn!  Nhân đây, cũng xin hỏi quan Sứ: Từ Trung Nguyên từ đâu ra vậy?
Sứ: Đó là nơi phát tích của người Hoa Hạ chúng tôi, là đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, từ đó mà có tên Trung Quốc…
Quỳnh: Ngài nói không sai. Nhưng xin hỏi cái tên gốc của Trung Nguyên là gì, do ai đặt?
Sứ: Ngài hỏi gì kỳ. Nó là thế, còn gốc với ngọn gì, đất Trung Quốc phải do người Trung Quốc đặt tên chớ còn ai vào đây nữa!
Quỳnh: Xin thưa, vậy Ngài không biết rằng trong sách Trung Quốc dân tộc sử của tiên sinh Chu Cốc Thành nói rằng, người Việt vào Trung Quốc trước người Hán sao? Sau khi khai phá đồng bằng miền Trung Hoàng Hà, người Việt đặt tên con sông lớn ở đấy là sông Nguồn còn đồng bằng thì được gọi là Trong Nguồn. Khi chiếm vùng đất này, ban đầu người Hoa Hạ vẫn gọi theo người Việt, nhưng sau đó, vào thời Đường, chuyển âm Trong thành Trung, Nguồn thànhNguyên! Xin được hỏi quan sứ điều nữa: vì sao ngôn ngữ Trung Hoa hiện nay đơn âm?
Sứ: (mừng ra mặt, có vẻ hý hửng) nói dõng dạc: Điều này thì tôi biết chắc như đinh đóng cột. Đó là bậc kỳ lão của chúng tôi, tiên sinh Dương Chấn Ninh, không chỉ là nhà Nobel vật lý mà còn là nhà kinh Dịch kiệt xuất từng phát biểu: Như mọi ngôn ngữ khác, tiếng Trung Quốc lúc đầu đa âm nhưng Kinh Dịch làm cho ngôn ngữ Trung Hoa trở thành đơn âm!
Quỳnh: Xin lỗi ngài, vị giáo sư lỗi lạc của Ngài cũng trật lấc. Không phải Kinh Dịch làm cho ngôn ngữ Trung Hoa trở thành đơn âm mà ngược lại, Kinh Dịch được ghi bằng ký hiệu nhị phân là vạch đứt vạch liền có trước. Sau đó, khi chữ vuông ra đời, Văn Vương, Khổng Tử mới dùng chữ để giải mã Dịch bằng cách thêm vào Hào từ, Thoán từ, Thập dực giúp nhiều người hiểu được kinh Dịch… Nhân đây cũng xin được thưa với quan Sứ, là dù đọc nát nhị thập tứ sử thì cho tới nay, tôi đố ngài biết được nguồn gốc người Trung Quốc ở đâu, tiếng Trung Quốc từ đâu ra và chữ Trung Quốc do ai sáng tạo?
Sứ: (mặt xịu xuống buồn xo rồi cất giọng thành thực): Phải nói điều này kể cũng xấu hổ, nhưng không thể nói khác, là không chỉ ngộ mà toàn thề tồng pào của ngộ cũng hông piếc, xin Trạng chỉ giáo!
Quỳnh: Xin lỗi quan Sứ, bây giờ tôi phải về, ra chợ mua mớ rau muống nấu cơm, kẻo mụ vợ tôi tối ngày ngồi coi phim Tàu bỏ tôi nhịn đói! Hẹn tái ngộ, tôi sẽ cho Sứ biết, còn nhiều hơn những điều như thế!”
Trên đây chỉ là câu chuyện hư cấu, nhưng thực tế, chúng ta có nhiều điều để nói với người Trung Hoa mà khi nghe ra, những người còn luơng tri sẽ hướng về đất Việt như cội nguồn và nhận ra, họ và chúng ta cùng một dòng máu.
Có câu chuyện đáng tiếc thế này. Tôi mới đọc trên mạng bài viết của một học giả sắc tộc Môn ở Miến Điện. Biết rằng ngôn ngữ Môn là hệ ngôn ngữ lớn ở Đông Á và người Môn là tộc lớn nhưng rồi bị mất đất, mất luôn tổ quốc nên ông đau đáu kiếm tìm đất tổ của mình. Một số nhà khoa học nói rằng, nơi phát tích của người Môn là Bắc Bộ Việt Nam nhưng ông không tin vì Annam nhỏ bé và bị nô lệ đâu xứng đáng là quê hương của dân tộc ông! Ông tin vào một số học giả phương Tây khác cho rằng, nam Trường Giang là nơi phát tích của người Môn. Vì vậy, trong dịp sang Trung Quốc, ông đã tới nam Trường Giang với lòng thành kính của kẻ hành hương tìm về cố xứ. Cảm động về mối chân tình của ông nhưng thương ông “mồ cha không khóc lại khóc đống mối” tôi định viết cho ông lá thư nói rằng:
“Bằng nguồn ADN lấy từ chính máu huyết đồng bào của ông và đồng bào tôi, khoa học xác minh rằng, bảy vạn năm trước, tổ tiên của ông và của tôi là người Việt cổ chủng Indonesian, được sinh ra tại thềm Biển Đông của Việt Nam, lúc đó là đồng bằng Hainanland. Khoảng năm vạn năm trước, có những nhóm Việt cổ đi về hướng tây, tới đất Mianmar thành người Môn bản địa. Nhóm đi xa hơn, tới Ấn Độ thành người Dravidian. Sau đó, do khí hậu phía bắc ấm lên, người Việt đi lên khai phá đất Trung Hoa. Rồi người Dravidian bị người Arian xâm lăng, người Môn bị người Miến chiếm đất, trở thành người thiểu số. Người Lạc Việt Indonesian đa số, giữ vai trò lãnh đạo phương Đông về xã hội và ngôn ngữ. Do chưa hiểu điều này và do nhận thấy người Môn và người Khmer giữ được ngôn ngữ gốc nên học giả phương Tây gọi là hệ ngôn ngữ Môn-Khmer nhưng thực ra đó là ngôn ngữ Việt cổ. Tổ tiên người Môn không hề sống ở nam Dương Tử rồi bị đẩy sang đất Miến như ông đã tưởng lầm. Khoa học cho thấy, quê hương người Môn là Bắc bộ, hay nói đúng hơn là thềm Biển Đông của Việt Nam.” Nhưng thật tiếc, vị học giả đã qua đời ba năm trước!
Nếu sự thật được phổ biến, chắc nhiều người Trung Hoa sẽ hiểu đâu là nguồn cội của mình.
Chính vì thế, Học viện Khổng tử không có gì đáng ngại.
Lý do để ngại
Có không ít lý do để ngại. Đó là việc nhà cầm quyền Bắc Kinh theo thói quen cố hữu làm những chuyện không đàng hoàng, vì đó là bản nghệ của họ. Lý do quan trọng hơn là vì “đã có Đảng và nhà nước lo”, người ta gạt nhân dân đầy trí tuệ ra ngoài, đặt vào đó những kẻ bằng cấp cùng mình nhưng cũng cùng mình dốt nát, ăn không nên đọi, nói không nên lời, suốt ngày khom lưng cúc cung nhận những thánh chỉ từ người Tàu để làm những điều tổn dân hại nước! Điều này thực tế đã diễn ra. Mấy năm trước, một tiến sĩ người Việt ở Úc viết cuốn Khoa học soi sáng lịch sử, được NXB Lao Động in nhưng vì động chút xíu tới lông chân “ông bạn 16 chữ vàng”, nó bị đem nghiền bột. Còn tôi, kỳ công viết được cuốn Khám phá lại lịch sử Trung Hoa, trình bày những tri thức mới nhất về cội nguồn sinh học, về lịch sử, văn hóa Trung Hoa đem tới ba nhà xuất bản mà không đắt vì “nhạy cảm nên cơ quan QLXB nói nên để lại”! Khi người dân vừa bị trói tay vừa bị bít miệng thì thua trên sân nhà là cái chắc. Lo là phải!
H.V.T.

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

“Luật Đất đai cần có những thay đổi toàn diện”

“Luật Đất đai cần có những thay đổi toàn diện”
Nhà nước cần đảm bảo quỹ đất, đặc biệt là đất nông nghiệp cho nông dân sản xuất nhỏ, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và phụ nữ.
In

Người dân cần được biết thông tin, được tham gia và được đồng thuận trước những quyết định cũng như chính sách về đất đai và cơ chế chuyển dịch cần đảm bảo cuộc sống và sinh kế cho họ...
Đó là những nguyện vọng của người dân vừa được Liên minh Đất đai (LANDA) công bố ngày 17/10, dựa trên kết quả tham vấn trực tiếp hơn 9.400 hộ gia đình và người dân tại 4 tỉnh Hoà Bình, Yên Bái, Quảng Bình và Long An cùng với các cuộc thăm dò trên 3 báo điện tử là VnEconomy, Vietnamnet và Dân Việt trong thời gian từ tháng 11/2012 đến tháng 9/2013, trước khi Quốc hội xem xét thông qua Luật Đất đai (sửa đổi).

Theo tổ chức này, mặc dù có nhiều điểm tiến bộ, song bản dự thảo sửa đổi Luật Đất đai mới nhất được trình tới Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét trong phiên họp lần thứ 21 trong tháng 9/2013 vừa qua vẫn chưa đáp ứng thỏa đáng nguyện vọng của dân.

LANDA cho rằng, với dự thảo này, người dân vẫn chưa được có tiếng nói quyết định đối với cuộc sống và sinh kế của mình khi đất đai bị thu hồi. Cuộc sống của những người có đất bị thu hồi thường trở nên khó khăn hơn do mất sinh kế, không tìm được việc làm thay thế, nhiều gia đình vì vậy bị đẩy trở lại tình trạng đói nghèo. 

Trên cơ sở kết quả các cuộc tham vấn cộng đồng, nguyện vọng chung của người dân trong diện khảo sát được LANDA tập hợp lại thành một số nội dung chính.

Thứ nhất, Nhà nước cần đảm bảo quỹ đất, đặc biệt là đất nông nghiệp cho nông dân sản xuất nhỏ, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và phụ nữ.

Thứ hai, về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, 94,6% ý kiến tham gia khảo sát đồng ý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện chỉ được phê duyệt khi đạt được sự đồng thuận của đa số người dân địa phương nơi quy hoạch; tỉ lệ đồng thuận này cần ít nhất là 70%. 

Thứ ba, về định giá đất, 84,68% đồng ý không trao thẩm quyền quyết định giá đất cho UBND cấp tỉnh. 92,35% ý kiến đồng ý rằng cần có sự tham gia của tổ chức định giá đất độc lập để thực hiện định giá đất nhằm đề xuất giá đất khách quan, phù hợp với thị trường trước khi cơ quan nhà nước quyết định; 93,3% đồng ý rằng người bị thu hồi đất có quyền tham gia giới thiệu danh sách các tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập sẽ tham gia đấu thầu định giá đất để xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. 

Liên quan đến cơ chế đồng thuận của người dân đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, 64,19% cho rằng cần lấy ý kiến của toàn bộ cộng đồng dân cư địa phương và 94,74% đồng ý rằng phương án chỉ được phê duyệt khi đạt được ít nhất 70% ý kiến đồng thuận.

Theo ông Phạm Văn Thành, Chủ tịch LANDA, việc Quốc hội quyết định lùi biểu quyết dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đến tháng 10/2013 là một cơ hội lớn để người dân và các ban, ngành có thêm ý kiến cũng như để cơ quan soạn thảo có thêm thời gian cân nhắc thấu đáo việc sửa đổi sao cho có lợi nhất cho người dân, đồng thời đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người dân.
 
“Đất đai là cuộc sống và sinh kế của người dân, nên sự phát triển kinh tế - xã hội trước hết phải có nghĩa là đem lại sự cải thiện cuộc sống cho chính những người có đất bị thu hồi.  Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai cần được tiếp tục sửa đổi trên cơ sở lắng nghe hơn nữa tiếng nói và nguyện vọng sâu xa và chính đáng của người dân. Nếu dự thảo có được các giải pháp thỏa đáng nhằm tháo gỡ các vấn đề then chốt này thì hàng triệu nông dân sản xuất nhỏ, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số... sẽ có cơ hội cải thiện cuộc sống và thoát khỏi đói nghèo một cách bền vững. Khiếu kiện đất đai qua đó cũng sẽ giảm”, bà Lê Kim Dung, đại diện Oxfam, tổ chức hỗ trợ LANDA, nêu quan điểm. 

Với mong muốn lợi ích của người dân nhằm đảm bảo phát triển kinh tế, xã hội công bằng, toàn diện và bền vững, LANDA kiến nghị dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần này cần có những thay đổi toàn diện và triệt để nhằm đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.

Cụ thể, về thu hồi đất, Nhà nước chỉ thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng phục vụ cho lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng. Điều này có nghĩa là không áp dụng cơ chế Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế vì lợi ích thuần túy của nhà đầu tư. Các dự án đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng cần được hiểu là các dự án đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội của đất nước. 

Nhà nước không thu hồi đất cho các dự án dự án chỉnh trang, phát triển các khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn, cụm công nghiệp, dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên, khu chế biến nông, lâm, thủy, hải sản tập trung. Các dự án vì lợi ích kinh tế của nhà đầu tư mà phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị thì cần áp dụng cơ chế thỏa thuận giữa nhà đầu tư và người sử dụng đất. Mức đồng thuận cần đạt 70%. 

Về định giá đất, không trao thẩm quyền định giá đất cho UBND tỉnh. Thay vào đó, cần thành lập cơ quan định giá đất quốc gia trực thuộc trung ương, Chính phủ hoặc Quốc hội. Người bị thu hồi đất có quyền tham gia giới thiệu danh sách các tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập tham gia đầu thầu định giá đất để xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Đối với nội dung đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số, tổ chức này kiến nghị cần thay thế chính sách "giao đất lần thứ 2 không thu tiền gắn với điều kiện 10 năm không được chuyển nhượng bằng chính sách giao đất không thu tiền cho cộng đồng để phân bổ theo hương ước, luật tục và sự đồng thuận cộng đồng cho những hộ gia đình thiếu đất ở, đất sản xuất".

Liên quan đến tỷ lệ đồng thuận, LANDA cho rằng, Luật Đất đai cần quy định nguyên tắc và tỷ lệ đồng thuận của người dân đối với các quyết định về đất đai có ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân. Cụ thể, quy hoạch sử dụng đất cấp huyện chỉ được phê duyệt khi có sự đồng thuận của 70% người dân địa phương nơi quy hoạch. Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chỉ được phê duyệt khi có sự đồng thuận của 70% của người bị thu hồi đất.

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

xã hội dân sự, kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền

HUỲNH NGỌC CHÊNH: Kính gửi Hội nghị Trung ương 8: ĐẤT NƯỚC ĐÒI HỎI P...: Tống văn Công Theo Diễn đàn xhds    A- ĐẤT NƯỚC ĐANG LÂM VÀO KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆN .                                          ...