Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Bắt giam 2 người trong vụ dân phản đối khai thác titan
(theo tuoitre)

26/03/2014 20:37 (GMT + 7)
TTO - Chiều 26-3, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Nam (Ninh Thuận) đã tống đạt quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt giam đối với hai ông Dương Văn Phước và Đỗ Văn Đức (cùng ngụ xã Phước Dinh) về tội chống người thi hành công vụ.
Cùng khởi tố tội danh này còn có bốn bị can khác nhưng công an cho tại ngoại điều tra.
Đại tá Huỳnh Cầm, trưởng Công an huyện Thuận Nam, cho biết cơ quan điều tra đang xem xét khởi tố vụ án hủy hoại tài sản đối với một số người dân khác có liên quan sau khi có kết quả thống kê, giám định tài sản thiệt hại của bên bị hại.
Theo thông tin từ công an, lúc 6g sáng 20-3, ông Dương Văn Phước dùng xe máy chở ông Đỗ Văn Đức cầm loa tay chạy khắp hai thôn Sơn Hải 1 và Sơn Hải 2 vận động hơn 300 người dân lên công trường khai thác titan-zircon của Công ty TNHH MTV Quang Thuận - Ninh Thuận (gọi tắt là Công ty Quang Thuận) để ngăn cản hoạt động khai thác và đập phá tài sản, nhà xưởng, thiết bị đãi quặng.
Khi lực lượng công an huyện Thuận Nam, công an xã Phước Dinh vào vận động, ngăn cản hành động đập phá thì sáu bị can nêu trên chống trả lại lực lượng thi hành công vụ.
Như Tuổi Trẻ thông tin, sau khi UBND xã Phước Dinh họp dân thông báo Công ty Quang Thuận tái khai thác titan-zircon vào ngày 19-3 thì liên tiếp các ngày sau đó, hơn 700 người dân hai thôn Sơn Hải 1 và Sơn Hải 2 đã kéo đến trụ sở xã để phản đối vì việc khai thác gây ảnh hưởng môi trường, làm sụt giảm mạch nước ngầm sinh hoạt của người dân.
Người dân cũng kéo đến công trường khai thác đập phá, đốt nhiều tài sản, thiết bị đãi quặng, nhà xưởng, nhà làm việc, chặt phá hệ thống ống dẫn nước của công ty và chống lại lực lượng chức năng.
CHÂU AN
cọp từ quêchoa !

Chuyện vui giảng đường: THẠC SĨ TẬP TÀNG

Trần Ngáp 
Thạc sĩ nọ nổi tiếng hay kể chuyện trên lớp nên được sinh viên mệnh danh là “chuyên gia kể chuyện". Trong giờ giảng thầy kể đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, từ chuyện vợ thầy mua cá, kho tôm đến chuyện động trời là đã có lần thầy được đứng trước cổng trường…Đại học Hơvớt (Mỹ)!

Hôm giảng “Truyện Kiều”, thầy nói: Tác giả của “Truyện Kiều” là Nguyễn Du. Nguyễn Du quê ở Hà Tĩnh. Các em biết vì sao người ta gọi dân Hà Tĩnh là “dân mang áo tơi đá bóng” không? Cả lớp đồng thanh “không”. 


Và thầy giải thích. Mà đã giải thích vì sao gọi dân Hà Tĩnh là “dân mang áo tơi đá bóng” thì để cho bài giảng “logic”, thầy cũng phải giải thích luôn vì sao gọi  dân Nghệ An là “dân cá gỗ”, dân Thanh Hóa là “dân đào rau má phá đường tàu”. Như vậy, chỉ riêng việc thầy “giới thuyết ba khái niệm cơ bản đầy tính lí luận”  trên đã mất gọn tiết 1.

Sang tiết 2, thầy bắt đầu đi vào “nội dung” của Truyện Kiều. Đến câu “Dưới dòng nước chảy trong veo, Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”, thầy dừng lại phân tích chữ “cầu”. Giọng thầy chậm rãi:  Cầu thời Nguyễn Du thô sơ chứ không phải hiện đại như cầu bây chừ mô! Rồi để sáng rõ vấn đề, thầy so sánh cái cầu trong “Truyện Kiều” của cụ Nguyễn với cái cầu Vượt ở thành phố Đông Hà. Thầy kể, cầu Vượt Đông Hà được làm từ thời gian nào, dài rộng ra sao, tốn kém bao nhiêu, hiện đại như thế nào. Và để sinh viên cảm nhận vấn đề một cách trực quan, thầy vẽ luôn cả cái cầu Vượt lên bảng! Thế là hôm đó thầy kể chuyện cầu Vượt hết 40 phút, minh họa cầu Vượt hết 10 phút, vị chi là hết tiết 2.

Cái mẹo của thầy là dạy ở Huế thì kể chuyện cái cầu Vượt Đông Hà, ra Đông Hà dạy lại kể chuyện cái cầu Chui ở Huế. Thầy dạy nhiều môn lắm nhưng vì kể chuyện là thủ thuật chính của thầy nên không có môn nào vắng bóng cầu Vượt, cầu Chui! Mỗi lần nghe thầy “giảng”, sinh viên kém thì phục thầy sát đất, xuýt xoa khen thầy uyên thâm, cái chi cũng biết, còn sinh viên khá thì ngán thầy đến tận… Lăng Cô, và gọi thầy là “Thạc sĩ tập tàng”!

Sách sử nói quá ít về Trường Sa, Hoàng Sa

( theo tuoitre )
 22/03/2014 08:11 (GMT + 7)
TT - Đó là phản ảnh của nhiều học sinh tại buổi đối thoại sáng 21-3, giữa lãnh đạo Sở GD-ĐT TP.HCM với 150 học sinh đại diện cho học sinh các trường THPT, trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn TP.
Trực tiếp đối thoại với học sinh là các ông Nguyễn Tiến Đạt, Nguyễn Hoài Chương - phó giám đốc Sở GD-ĐT, cùng trưởng, phó phòng chuyên môn của sở.
Vừa khô, vừa thiếu
"Sở GD-ĐT nên tổ chức cho chúng em được trải nghiệm thực tế bằng một chuyến đi Trường Sa, Hoàng Sa để chúng em cảm nhận, học tập và tự hào hơn về lịch sử dân tộc"
Trần Thiên An (học sinh Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong)
Mở đầu buổi đối thoại, ông Nguyễn Hoài Chương gợi ý: “Buổi đối thoại hôm nay sẽ không hạn chế về nội dung. Các em có thể nêu suy nghĩ của mình về tất cả vấn đề liên quan tới chuyện học tập, sinh hoạt, rèn luyện, đến những vấn đề mang tính thời sự hiện nay”.
Đáp lời ông Chương, học sinh Cao Thanh Liêm, Trường Thiếu sinh quân, phát biểu: “Học sinh chúng em đều ý thức là lịch sử rất quan trọng nhưng chương trình quá khô khan. Ở một số trường còn thiếu trang thiết bị dạy học và ít tổ chức các hoạt động ngoại khóa về môn sử nên học sinh không hứng thú với môn học này. Đã vậy, những sự kiện hấp dẫn mà chúng em quan tâm như: hải chiến Trường Sa, bãi đá Gạc Ma... lại không có trong sách giáo khoa”.
Tương tự, Lưu Yến Bình, Trường THPT Trường Chinh, phản ảnh: “Chương trình lịch sử hiện nay vẫn còn thiếu nhiều kiến thức mà học sinh chúng em cần biết. Như các nội dung về Hoàng Sa, Trường Sa sách giáo khoa nói quá ít”. Thái Anh, học sinh Trường THPT An Đông, cũng thắc mắc: “Tại sao sách giáo khoa môn sử không nói gì về chiến tranh biên giới phía Bắc?”.
Ngoài những “chứng cứ” rằng môn sử không hấp dẫn học sinh, nhàm chán và nặng nề nên ít học sinh yêu thích, các đại biểu dự buổi đối thoại còn nêu bức xúc. “Chương trình các môn bậc THPT bắt chúng em phải học lý thuyết quá nhiều, cần tăng cường thực hành nhiều hơn” - Mai Trân, Trường THCS - THPT Trí Đức, đề nghị. Tiếp theo đó là hàng loạt ý kiến của đại diện học sinh Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Trường THPT Bình Phú, Trường THPT Bình Khánh yêu cầu Sở GD-ĐT cần tăng thêm giờ học về kỹ năng sống cho học sinh như: kỹ năng ứng phó với tai nạn, kỹ năng hòa nhập vào môi trường mới, kỹ năng vượt qua những thử thách của cuộc sống..., cần tăng thêm các chương trình cho học sinh trải nghiệm thực tế chứ đừng dạy kỹ năng sống bằng các buổi tập huấn, nói chuyện chuyên đề chung chung, sau khi về nhà là quên hết.
Trả lời các câu hỏi của học sinh, ông Nguyễn Hoài Chương thừa nhận chương trình phổ thông hiện nay nặng nề và mang tính hàn lâm. Tuy nhiên, ông cũng “bật mí” về định hướng giáo dục trong thời gian tới là tích hợp, giải quyết vấn đề bằng kiến thức liên môn: “Thầy là “dân” toán nhưng thầy xin khẳng định thầy dùng rất nhiều kiến thức về lịch sử, địa lý trong cuộc sống. Do vậy các em đừng coi thường hai môn này. Thầy không chê trách việc các em có định hướng thi đại học khối A, khối B, các em không đăng ký thi tốt nghiệp môn sử, địa. Nhưng học lệch là điều không thể chấp nhận bởi nó khiến tâm hồn, khả năng chúng ta bị què quặt. Sự thành công trong cuộc sống, ngoài kiến thức chuyên môn, chúng ta phải cần thêm rất nhiều kiến thức phụ” - ông Chương giải thích.
Mới lớp 10 đã phải học triết
Được xem là một trong những đại biểu có ý kiến dài nhất buổi đối thoại, Phạm Thái Tiểu My, lớp 11A1 Trường THPT Bình Khánh, cho biết: “Mới lớp 10, chúng em đã phải học về triết học trong môn giáo dục công dân. Tại sao ngành giáo dục không đưa môn học này về đúng với vị trí của nó là giáo dục con người? Thời gian qua có học sinh nữ phải nghỉ học vì có thai, có học sinh đâm chém nhau... tình trạng này có phải lỗi do môn giáo dục công dân chưa thực hiện đúng nhiệm vụ của nó không?”.
Tiểu My cũng “đặt hàng”: “Em được biết khi chọn môn thi tốt nghiệp THPT, rất nhiều bạn trong nội thành đã chọn thi tiếng Anh. Thế nhưng ở Cần Giờ thì ngược lại. Thậm chí, nhiều bạn còn liệt môn tiếng Anh là môn học sinh Cần Giờ sợ nhất. Em mong rằng Sở GD-ĐT quan tâm hơn đến việc dạy và học tiếng Anh ở Cần Giờ, đồng thời đầu tư nhiều hơn cho môn học này”. Trong khi đó Nguyễn Hữu Thái Anh, học sinh Trường THPT An Đông, đặt câu hỏi: “Việc dạy và học tiếng Anh ở TP đã đi đúng hướng chưa? Bởi trên thực tế, hầu hết các bạn học giỏi tiếng Anh đều phải học thêm ở trung tâm ngoại ngữ”.
Tại buổi đối thoại, nhiều học sinh đã trình bày mong ước về giáo dục trong tương lai như: đưa môn học kinh tế, nghệ thuật vào nhà trường; giáo dục ý thức công dân cho học sinh ngay từ bậc mầm non... Nói như một học sinh Trường THCS - THPT Đinh Thiện Lý: “Việc giáo dục văn hóa truyền thống cho học sinh hiện đã có nhưng chỉ dừng lại ở mức cơ bản. Em mong chương trình học sẽ có nhiều nội dung về văn hóa VN. Ví dụ như chén nước mắm của người Việt ta cũng chứa đựng cả một nền văn hóa trong đó. Những chi tiết này dù nhỏ nhưng tạo sự thú vị cho học sinh chúng em”.
HOÀNG HƯƠNG
Quy chế thi thay đổi nhanh và bất ngờ quá
Nhiều ý kiến của học sinh tập trung vào quy chế thi cử, trong đó có việc bỏ điểm sàn trong tuyển sinh ĐH, cách tính điểm thi tốt nghiệp THPT, tầm quan trọng của môn tiếng Anh trong thời đại hội nhập nhưng Bộ GD-ĐT lại không đưa môn tiếng Anh là môn bắt buộc khi thi tốt nghiệp THPT... Có học sinh ở Trường THPT Trường Chinh lo lắng: “Quy chế thi tốt nghiệp THPT năm nay thay đổi nhanh và bất ngờ quá, năm sau có thay đổi nữa không?”. Có học sinh còn đề nghị gộp hai kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH thành một để đỡ mất sức: “Vì trước sau gì học sinh cũng chỉ thi một khối thi”.

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

copy từ Bauxite Việt Nam :

Suy nghĩ tản mạn về văn hóa

Mạc Văn Trang
Trong cuộc tọa đàm (22 - 01- 2014) về Văn hóa, giáo dục và phát triển nhân cách người Việt Nam… khi được giới thiệu bài “Mấy suy nghĩ tản mạn về giáo dục” của tôi vừa viết, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thế thao, Du lịch Hồ Anh Tuấn liền đặt viết bài này. Dẫu không chuyên, nhưng trước một gợi ý đầy cảm hứng, nên thành thật bày tỏ mọi nghĩ suy, chỉ mong gợi ra chút gì đó để cùng tư duy….
1. Xét về nguồn gốc xuất hiện thì CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA là gốc của mọi chuyện trong xã hội. Từ khi người vượn đứng thẳng, di chuyển bằng hai chân và biết sử dụng công cụ, hai quá trình tiến hóa, phát triển cả mặt sinh học lẫn tâm lý diễn ra dài đến 4 - 5 triệu năm mới trở thành người Homo sapiens (người hiện đại – modern sapiens). Đó là những nhóm người, về mặt tiến hóa sinh học đã hoàn thiện; về mặt tâm lý đã đạt đến trình độ: biết chế tạo công cụ, làm ra lửa, tư duy, ngôn ngữ phát triển, hình thành phân công lao động, “gia đình huyết tộc” mẫu hệ … Từ người Homo sapiens đến ngày nay chừng 3 - 4 vạn năm, về mặt giải phẫu sinh lý, không có biến đổi về chất, nhưng mặt tâm lý, nhất là trí khôn đã diễn ra quá trình phát triển liên tục, nhiều đột phá, càng gần với hiện tại càng phát triển cực nhanh… (theo Nguyễn Đình Khoa, 2001).
Có CON NGƯỜI (chỉ tính từ Homo sapiens) mới có VĂN HÓA… Văn hóa đầu tiên là chế tác công cụ, làm ra cái ăn, cái mặc, tạo ra chỗ ở…, hình thành nên VĂN HÓA VẬT THỂ (các công cụ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt…; các dụng cụ săn bắn, sản xuất; hang động được cải tạo, lều, lán...). Đồng thời là phát triển ngôn ngữ, các quy định về quan hệ, tập tục, các sinh hoạt cộng đồng, hình thành nên VĂN HÓA PHI VẬT THỂ. Khi con người khách quan hóa, vật thể hóa năng lực ra bên ngoài (dưới dạng công cụ, vật phẩm, ngôn ngữ) mới ý thức rõ về bản thân, rồi tự ý thức, biết đấu tranh động cơ, tự điều chỉnh hành vi, mới hình thành nên NHÂN CÁCHNgười đi trước có nhiều kinh nghiệm về hai lĩnh vực văn hóa nói trên, đem truyền thụ kinh nghiệm đó cho những người thiếu kinh nghiệm (chủ yếu là trẻ mới lớn), tức là xuất hiện GIÁO DỤC. Thoạt đầu giáo dục diễn ra trực tiếp, dùng công cụ, ngôn ngữ, hành động, thao tác để truyền dạy kinh nghiệm. Về sau cộng đồng phát triển, nhất là xuất hiện chữ viết, việc giáo dục mới trở thành một hoạt động được tổ chức, thành “lớp học”… Sản xuất phát triển, phân phối, trao đổi, lưu thông vật phẩm dồi dào, tổ chức xã hội phát triển… mới hình thành hoạt động KINH TẾ rồi CHÍNH TRỊ theo đúng nghĩa…
Tiếp cận lịch sử như vậy sẽ thấy rõ CON NGƯỜI và VĂN HÓA là gốc, chi phối tất cả đời sống xã hội. Mọi hoạt động đều do con người tiến hành; mọi hoạt động đều mang bản chất văn hóa. Nhưng khi hoạt động kinh tế, chính trị lớn mạnh, tiền và quyền có thể làm phát triển rực rỡ nền văn hóa, hoặc cũng có thể hủy hoại, làm biến dạng, suy đồi nền văn hóa… Quyền và tiền xét đến cùng, cũng chỉ là phương tiện, cái quyết định vẫn chính là con người, gốc văn hóa của con người.
2. Loài người, chủ yếu có ba loại kinh nghiệm, ba loại văn hóa gốc, đó là: chế tạo và sử dụng công cụ; phát triển các hình thức sinh hoạt cộng đồng; tổ chức, quản lý xã hội.
Thoạt đầu thì các tộc người Homo sapiens có trình độ xuất phát gần như nhau, nhưng về sau do nhiều điều kiện khác nhau đã tạo ra sự phát triển không đồng đều về cả ba lĩnh vực kinh nghiệm nói trên.
- Việt Nam tự hào có hơn 4.000 năm lịch sử tồn tại, phát triển, nhưng về mặt CHẾ TẠO CÔNG CỤ thì cho đến nay liệu ta đã có đóng góp nào vào kho tàng chung của nhân loại một cái gì chưa? Thử nhìn xem, từ cái ghim giấy, cái bấm móng tay, cái gọt bút chì, cái đinh vít, cái mở nút chai, cái vòi nước, cái đèn điện đến cái hố xí bệt, cái xe đạp, xe máy, ô tô cho đến cây cầu sắt, ngôi nhà cao tầng, tàu thủy, máy bay, tàu ngầm, súng lục đến súng đại bác, tên lửa, vệ tinh… đều không phải do ta nghĩ ra. Ta đã từng làm được trống đồng, đồ gốm, nhiều nhạc cụ tinh xảo…, nhưng tất cả bộ mặt văn minh của xã hội Việt Nam ngày nay là nhờ vào những phát minh, chế tạo và sử dụng công cụ của phương Tây rồi ta bắt chước. Ta có thể tự hào về lĩnh vực này không? Nên tự nhận là quá lạc hậu, vô cùng kém cỏi, cần phải khiêm tốn và khẩn trương học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại mới hy vọng “phát triển nhanh và bền vững”!
- Lĩnh vực SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG của dân ta có lịch sử lâu đời và hết sức phong phú, đa dạng. Ta có quyền tự hào đôi chút, vì trong đó có một số đóng góp vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại, như 09 di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa nhân loại. Sinh hoạt, giao lưu cộng đồng là loại hình văn hóa hết sức quan trọng, thậm chí Lewis Mumford (1895 - 1990) còn cho rằng loài người từng dành nhiều thời gian cho giao tiếp cộng đồng hơn cả thời gian chế tạo công cụ. Chính sinh hoạt cộng đồng làm nên bản sắc văn hóa dân tộc, làm nên con người văn hóa độc đáo không lẫn với các dân tộc khác. Đây là vốn văn hóa vô cùng quý giá làm nên bản sắc dân tộc, phải được chắt chịu gìn giữ, truyền đời.
- Về TỔ CHỨC, QUẢN LÝ XÃ HỘI, nhân loại đã trải qua các phương thức tổ chức quản lý từ gia trưởng, nô lệ, phong kiến, tư bản man rợ, quân phiệt độc tài, tư bản phát triển, xã hội chủ nghĩa (Liên Xô)… Kinh nghiệm của nhân loại cho thấy mô hình tổ chức, quản lý xã hội tiến triển theo hướng ngày càng tôn trọng cá nhân con người nhiều hơn, dân chủ, tự do nhiều hơn; pháp trị nghiêm minh, công khai, minh bạch, bình đẳng hơn… Bộ máy quản lý xã hội tinh giản, hiệu quả hơn; chính quyền hướng đến phục vụ dân, được chọn lựa, giám sát và phế truất bởi dân... Những phương thức tổ chức, quản lý xã hội đi ngược với xu thế tiến bộ của nhân loại, dù ngoan cố đến đâu, cuối cùng cũng bị lịch sử đào thải. Về mặt này, ta đang đứng ở nấc thang nào của nhân loại về văn hóa tổ chức, quản lý xã hội và cần học hỏi những gì từ các quốc gia phát triển, thiết nghĩ không cần phải nói! Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ đã nhấn rất mạnh phải “đổi mới thể chế”. Chỉ cần thực lòng học hỏi các nước có mô hình tổ chức, quản lý tiến bộ, hiệu quả để vận dụng hợp lý vào nước ta, chắc chắn văn hóa lãnh đạo, quản lý sẽ có chuyển biến căn bản.
Phân tích sâu hơn nữa và so sánh phát triển văn hóa giữa các nước, ta sẽ tránh ngộ nhận, hiểu rõ trình độ phát triển văn hóa của mình đang ở đâu và cần cải cách theo hướng nào.
3. UNESCO công nhận những di sản văn hóa nào của ta là di sản của nhân loại?
- Ta có 5 DI TÍCH VĂN HÓA VẬT THỂ đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới cần bảo tồn là: Quần thể di tích Cung đình Huế, phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, di tích Hoàng thành Thăng Long, thành nhà Hồ. Đó đều là những di sản của chế độ phong kiến để lại, may chưa bị phá hết! Liệu từ Cách mạng 1945 đến nay có công trình nào đáng hy vọng để sau này đề nghị UNESCO công nhận là di sản thế giới? Tôi nghĩ, địa đạo Vĩnh Linh và địa đạo Củ Chi cần được bảo tồn như di sản quốc gia và có hy vọng…
- Có 09 DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ đã được UNESO công nhận là di sản của nhân loại: Nhã nhạc Cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Kinh Bắc, Ca Trù, Hội Gióng, Hát Xoan, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Đờn ca Tài tử Nam bộ. Đó là điều đáng tự hào. Nhưng tất cả đều là những thứ được nảy sinh, duy trì từ xã hội phong kiến, thực dân; từ 1945, đã trải bao thăng trầm, may các nghệ nhân già còn sống sót để khôi phục lại! Đúng như Edouard Herriot (1872 - 1957) từng nói: “Văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”!
Từ cách mạng 1945 đến nay ta đã có hàng trăm nghị quyết, chủ trương về “chống” và “xây”, hàng ngàn phong trào, hàng vạn điển hình tiến tiến về văn hóa, liệu có hy vọng một cái gì đó sẽ được UNESCO công nhận là di sản của nhân loại? Tôi thấy có hai cái có giá trị hy vọng có thể đóng góp: Một là, Ngày hội văn hóa các dân tộc; hai là Tết trồng cây. Nhưng muốn những thứ đó mang giá trị nhân loại nó phải thực sự của dân, do dân trở thành sinh hoạt tự nhiên, rộng khắp, bền vững. Không mấy nước có được 54 dân tộc sống hòa thuận và làm nên những giá trị văn hóa đặc sắc như thế. Nhưng nếu lại “chỉ đạo quyết liệt”, biến ngày hội văn hóa các dân tộc chỉ chuyên “Mừng Đảng, Mừng Xuân”, “Chào mừng đại hội” thì hỏng. Tết trồng cây là tầm nhìn văn hóa tuyệt vời của Cụ Hồ; nhưng nếu lại chỉ tổ chức mít tinh, “phát động” rầm rộ, “toàn hệ thống chính trị đồng loạt ra quân”, trồng xong “mười cây chết chín, một cây cụt đầu”; rồi mấy vị quan chức com-lê-cà-vạt giả vờ xới xới, tưới nước vào cái cây đã được người ta trồng sẵn và đeo biển tên lãnh đạo vào… thì vứt! Mỗi Tết trồng cây, cộng đồng mỗi địa phương tự nguyện cùng nhau trồng cây phủ kín một khu đất trống, đồi trọc rồi chăm sóc cho nó tốt tươi; hàng năm lại trồng mới nhiều cây nữa và chăm sóc đến nơi đến chốn, làm cho cây xanh được phủ khắp, môi trường được cải thiện, trồng và bảo vệ cây trở thành ý thức, nếp sống của người dân… Tất cả phải tự nhiên, thường tồn, của dân, do dân, hiệu quả, bền vững, mới hy vọng!
4. Sự lộn xộn, suy đồi về văn hóa - xã hội hiện nay có một nguyên nhân sâu xa từ khủng hoảng hệ tư tưởng, đảo lộn các giá trị.
Toàn dân miền Bắc từ những năm 1954 và miền Nam sau năm 1975 đã được “toàn hệ thống chính trị” truyền bá bằng mọi biện pháp để xóa bỏ tận gốc rễ những cái cũ, cả văn hóa vật thể (đập bỏ đình chùa, tịch thu ruộng đất tư, đốt sách báo của chế độ cũ…) lẫn văn hóa phi vật thể (xóa bỏ những quan niệm cũ, niềm tin, giá trị, phong tục cũ, nhiều tên phố, tên làng, tên tỉnh cũ…) để “xây dựng hệ tư tưởng mới, nền văn hóa mới, con người mới”… Ba cuộc cách mạng được đồng thời tiến hành: quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, văn hóa tư tưởng, đảo lộn toàn bộ đời sống xã hội. Suốt quá trình hàng nửa thế kỷ qua, toàn xã hội Việt Nam liên tục trải qua những thí nghiệm THỬ VÀ SAI lặp đi lặp lại theo chu kỳ. Những cái gì trước phê phán nhiều nhất, nay lại lên ngôi mạnh nhất. Giai cấp công nông từng được lên mây xanh, nay thực tế lại trở về đáy của xã hội!... Cùng với nội tình đó là hệ thống xã hộ chủ nghĩa thế giới sụp đổ cả về thực tiễn lẫn lý luận. Như vậy, làm sao lòng người không chao đảo? Chỉ những ai vẫn trơ như đá mới thật lạ kỳ!
Con người tạo ra văn hóa, hưởng thụ văn hóa bằng các hoạt động thực tiễn, được điều khiển bởi thế giới nội tâm rất phức tạp. Cho nên một khi những quan niệm, lý tưởng, niềm tin đã tan biến, người ta phải lấy tất cả những gì đang có: “duy tâm”, “duy vật”, “thực dụng”, “hiện sinh”, “mê tín”, “Nho”, “Lão”, “Phật”… lấp đầy vào chỗ trống đó. Các quan niệm, niềm tin, tình cảm, giá trị, động cơ, thái độ mỗi người, mỗi nhóm người trong xã hội theo một hướng, bị điều chỉnh bởi những động lực trái ngược nhau thì sao có sự đồng thuận xã hội, làm sao có được động lực chung và nền nếp, kỷ cương xã hội! Bao nhiêu chuyện mâu thuẫn, vướng mắc cả trong lý luận lẫn thực tiễn đang phơi bày ra: đảng viên hỏi, tổ chức không trả lời được; con hỏi cha, trò hỏi thầy, dân hỏi cán bộ… không trả lời được, hoặc đùn đẩy, hoặc trả lời mập mờ, loanh quanh khiến không những không thể tin tưởng mà còn gây thêm bối rối, mất lòng tin hơn! Nhiều thông điệp của các lãnh đạo cấp cao phát ra, hé mở những hy vọng tốt đẹp, thì ngay lập tức những hành động, thái độ của các cấp cơ sở thực thi, làm trái ngược hẳn lại!?...
Chỉ có thể tạo ra sự đồng thuận xã hội, đoàn kết dân tộc thật sự khi tất cả đều hướng đến những giá trị chung mà không còn kỳ thị, phân biệt đối xử, nghi kỵ lẫn nhau. Các giá trị chung chủ yếu là:
- Tổ quốc trên hết, độc lập của đất nước, tự do của nhân dân là giá trị cao nhất, không một phe nhóm hay một người nào được phép vi phạm điều đó;
- Đổi mới thể chế phải theo mô hình tiến bộ của nhân loại, đã được chứng minh từ thực tiễn của nhiều nước đi trước; một con đường, một mô hình, một thể chế mà nhân dân tin tưởng. Một chính quyền và cơ chế đảm bảo: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”;
- Một đường lối dân chủ, tự do, bao dung, nhân ái đem lại hòa hợp dân tộc, “thống nhất nhân tâm”, quy tụ lòng người, tạo ra đồng thuận xã hội…
- Một thể chế pháp luật được thượng tôn, quyền lực được kiểm soát, công khai, minh bạch, không một phe nhóm, cá nhân nào được phép đứng trên, đứng ngoài pháp luật…
- Một phương thức quản lý đời sống văn hóa xã hội thay vì áp đặt, rập khuôn, đồng loạt, thi đua dối trá, tạo ra cho các cộng đồng dân cư, các đơn vị, các cá nhân quyền tự chủ, tôn trọng sự khác biệt, tự do sáng tạo, nói và làm trung thực, tự do “mưu cầu hạnh phúc”…
Hôm 13-01-2014, Bộ trưởng Giáo dục Phạm Vũ Luận nói tại Viện Khoa học Giáo dục, có một câu hay, đại ý: Vấn đề cơ bản của đổi mới căn bản toàn diện giáo dục là hướng đi, đường đi; anh đi đúng thì chỉ đi 10 km là người ta thấy đúng, thấy tin rồi; anh đi sai thì đi cả 100km cũng chẳng giá trị gì, càng đi, càng sai! Đổi mới thể chế văn hóa, xã hội, xây dựng tư tưởng, niềm tin… cũng cần theo cách đó.
5. Đời sống văn hóa của mỗi cộng đồng dân cư cần được nhìn nhận như một cấu trúc tổng thể các yếu tố thường tồn làm nên văn hóa.
Mỗi cộng đồng dân cư đều có hệ thống những thiết chế văn hóa được hình thành, gắn kết bao đời với nhau không thể thiếu, như: mỗi dòng họ đều có Từ đường, mộ Tổ, gắn với một ít đất chung; mỗi làng, xã, bản mường… đều cần có: trụ sở chính quyền, trường học, trạm xá, đình, chùa (hoặc nhà thờ…), chợ, nghĩa trang, chỗ vui chơi của thanh thiếu niên; đều có những “lệ làng”, những tập tục, lễ hội… Đó là những thiết chế làm nên đời sống văn hóa - xã hội thường tồn của cộng đồng qua bao nhiêu đời. Thế mà chính quyền nhiều nơi chẳng quan tâm gì đến nơi giữ trẻ, trường học, trạm xá phục vụ cho dân; đình chùa hầu hết bị phá đi, làm lại, mất hết giá trị truyền thống; nhiều chợ bị chính quyền dẹp bỏ, dân phải tự tìm cách nhóm họp thành “chợ tạm”, “chợ đuổi”, “chợ chui”… Nhiều nghĩa địa bị “giải tỏa” khiến dân bức xúc; những nghĩa địa còn lại chẳng được quản lý đúng đắn, khiến xảy ra tình trạng mạnh ai nấy xây mồ mả. Nhìn vào cái nghĩa địa ở nông thôn đủ thấy sự phân hóa đẳng cấp bát nháo của xã hội. Chung quy tiền và quyền phô trương sức mạnh bằng những từ đường hoành tráng, lăng mộ ngạo nghễ, quái dị, đè bẹp hết những nấm mồ người bình dân. Chỉ nhìn vào đó cũng thấy một tình trạng vô văn hóa, sự bất công xã hội, những hố sâu ngăn cách giữa các nhóm thành viên của cộng đồng dân cư.
Các sinh hoạt văn hóa của mỗi cộng đồng đã trở thành nếp sống của dân cư cần được tôn trọng để người dân tự biết tổ chức sao cho phù hợp với họ, tránh chỉ đạo rập khuôn, cấm đoán tùy tiện. Nhưng quản lý nhà nước cần hướng dẫn bỏ dần những tập tục không còn phù hợp với pháp luật (tảo hôn), hay phản văn hóa so với những giá trị chung của nhân loại hiện nay (như lễ hội đâm trâu, chém lợn đầu xuân…).
Ở những nơi hình thành cộng đồng dân cư mới (khu công nghiệp, đô thị, di dân…), ngoài những trụ sở đảng, ủy ban, công an (thường rất hoành tráng), cần đầu tư xây dựng nhà trẻ, trường học, bệnh xá, chợ, nhà văn hóa, khu vui chơi giải trí, địa điểm tâm linh, nghĩa trang cho dân… Có những thiết chế văn hóa - xã hội đó mới hình thành nên cộng đồng dân cư và dần dần hình thành nên cái văn hóa chung của cộng đồng và đó là môi trường để hình thành nên con người văn hóa gắn bó với cộng đồng.
Những “khu phố văn hóa” hiện nay chủ yếu mang tính phong trào, một hình thức quản lý xã hội của chính quyền, nó thiếu các yếu tố tạo nên đời sống văn hóa chung của cộng đồng.
Các “làng văn hóa” hay 19 tiêu chí xây dựng “nông thôn mới” chủ yếu là những tiêu chí về kinh tế - chính trị - xã hội hơn là văn hóa. Ở đó không đề cập đến đình chùa, nhà thờ, sinh hoạt văn hóa tâm linh hay các lễ hội văn hóa của cộng đồng, các giá trị truyền thống cần bảo tồn, phát huy… Những “khu phố văn hóa” và làng “nông thôn mới” như vậy, chủ yếu chỉ thấy phần xác mà không có phần hồn văn hóa!
6. Văn hóa nghề nghiệp phải từ “làm nghề gì ăn nghề ấy” trở thành “làm nghề nào ra nghề ấy”!
Mỗi nghề nghiệp sinh ra, tồn tại và mất đi hay phát triển đều xuất phát từ nhu cầu của xã hội, chẳng nên phân biệt nghề này “cao quý” hơn nghề khác. Mỗi nghề đều có sứ mạng, chức năng, nhiệm vụ, đạo đức, yêu cầu, giá trị nghề nghiệp của nghề đó. Thể chế bất cập, quản lý xã hội sai lầm đã dẫn đến tình trạng suy đồi đạo đức nghề nghiệp, hình thành nên thứ “triết lý” “LÀM NGHỀ GÌ ĂN NGHỀ ẤY”. “Ăn” ở đây là ăn chặn, ăn gian, ăn bẩn, ăn bất chính, ăn hối lộ… Thời bao cấp, những nghề phân phối lương thực, thực phẩm, cung cấp hàng hóa thiết yếu là những nghề “thơm”, nghề “ăn” trong xã hội. Người làm những nghề ấy không chỉ “ăn” chênh lệch giá giữa “cung cấp” và “tự do” mà còn có oai quyền ai “xin” thì “duyệt cho”… Có lần anh bạn tôi bực tức với chị bán thịt, quát lên: “Chị bảo làm nghề gì ăn nghề ấy, thì cho chị đi đổ thùng xí!” (hồi đó chưa có hố xí tự hoại). Nhưng thực tế, người đổ thùng xí vẫn tìm cách “ăn được”. Sáng sớm, họ cứ đỗ “xe thùng” ở trước các hàng phở, hàng cà phê… đang sắp đông khách. Thế là chủ nhà hàng vội chạy ra giúi ít tiền để họ rời xe ra xa!... Những người công nhân thì lấy cắp mấy cái ốc vít, tí xi măng, cuộn dây thép bỏ trong cạp lồng cơm đã ăn xong… Từ ngày đổi mới nhu cầu xã hội bung ra, những nghề cấp phép, thu thuế, ký duyệt dự án, thanh tra… mới “ăn dày”, “ăn bội thực”… Các nghề khác, hưởng đồng lương đói rách kinh niên, thấy vậy cũng phải tìm cách “ăn”. Như lời một cán bộ xã nói: “Việc dễ không gây khó, lấy chó gì mà ăn!”. Thế là “toàn hệ thống chính trị” bất kỳ ai ở vị trí nào cũng tìm cách tạo ra “quyền” làm khó cho đối tượng phục vụ để được “ăn”! Quyền bé thì ăn vặt, ăn bé; quyền lớn thì ăn to, ăn dày… Người không được ăn thì tức tối, tìm cách phá. Thế rồi người “phá” cũng được chia phần để nguôi ngoai “đồng cảm”! Thê thảm nhất là thầy thuốc “ăn” bệnh nhân, thầy giáo “ăn” học trò, quan tòa “ăn” khổ chủ, thầy tu “ăn” tín đồ, người đi cứu trợ “ăn” nạn nhân!... Ai không “ăn” được người khác thì “ăn” vào công quỹ, “ăn” thời gian để làm việc riêng. Ai không ăn được gì thì ăn trộm, ăn cướp!... Người làm nghề hầu như chẳng gắn bó say mê với sứ mệnh, lý do tồn tại vì xã hội của nghề, mà chỉ mượn nghề như một vị trí, một phương tiên để kiếm ăn! Người ta bỏ nhiều tiền ra chạy chức chạy quyền, thực chất là “đầu tư” để kiếm lời. Sự tha hóa nhân cách nghề nghiệp, văn hóa nghề nghiệp diễn ra âm thầm, trường kỳ dai dẳng mà thật khủng khiếp. Nhân cách văn hóa người làm nghề, hầu hết tha hóa, biến dạng, méo mó! Ai sống thật với nghề thì vật vờ, lạc lõng như ở bên lề xã hội!...
Để cho “LÀM NGHỀ NÀO RA NGHỀ ẤY cả về phương diện pháp luật lẫn văn hóa đạo đức là một công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài, chứ không thể bằng mấy cái chỉ thị “cấm nhận phong bì”, mấy cuộc vận động “phê, tự phê”, “học tập làm theo”, “dấy lên phong trào thi đua”… Trước hết cần:
- Thấy rõ các chủ tư nhân bao giờ cũng tìm kiếm những người có phẩm chất, năng lực tốt, làm việc hiệu quả để thuê mướn và trả lương xứng đáng để họ sống đàng hoàng, yên tâm gắn bó với công việc; đồng thời loại bỏ ngay khỏi bộ máy, những người kém đức, bất tài, vô tích sự, ăn hại. Vậy thì hãy chuyển sang tư nhân tối đa những gì có thể tư nhân hóa được, để tạo ra cuộc cách mạng về quản lý sử dụng con người và các nguồn lực khác hiệu quả hơn. Tất nhiên nhà nước phải hỗ trợ những ngành nghề cần cho xã hội mà đang gặp khó khăn; phải có luật pháp và cách kiểm soát để chủ tư nhân không làm bậy. Cái này nhân loại có nhiều kinh nghiệm thành công rồi, ta thật lòng muốn học thì không khó.
- Thay đổi lại cách nhìn và cách đào tạo, sử dụng, quản lý nguồn nhân lực của xã hội. Giáo dục phổ thông đã cần hướng nghiệp và phân hóa để mỗi học sinh chủ động, hiểu mình, biết về nghề nghiệp trong xã hội để lựa chọn, quyết định phù hợp; mỗi cơ sở đào tạo đều ý thức rõ, chủ động tuyển chọn, đào tạo nhân lực hướng vào nhu cầu, yêu cầu của những nhóm khách hàng xác định và hàng hóa sức lao động đào tạo ra cạnh tranh được trên thị trường lao động; việc quản lý nhân lực quan trọng nhất là dùng người đúng việc, tạo cơ chế phát huy sáng kiến, phát triển tài năng và trả lương xứng đáng cho người làm nghề sống được bằng nghề chứ không cần “ăn” vào đối tượng phục vụ; có cơ chế thải loại kịp thời những người không đáp ứng yêu cầu chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp…
- Có một bộ luật quy định rõ yêu cầu của từng nghề (nhóm nghề) về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp từ người giúp việc gia đình đến giáo viên, bác sĩ, luật sư, nhà báo, quan chức… Luật đó cũng cần quy định rõ quyền mua, bán sức lao động chứ không phải mua bán, nhân phẩm con người; trả lương là mua sức lao động chứ không phải mua thân xác hay nhân phẩm của người bán sức lao động…
- Mại dâm cũng nên là một nghề, vì nó gắn với nhu cầu tự nhiên của con người xa xưa nhất và mãi mãi về sau; có cấm đoán, bắt bớ hết đợt này đến đợt khác cũng như “bắt cóc bỏ đĩa”, mà càng làm nhơ nhớp thêm cho thân phận bao con người, cho xã hội. Là một nghề hay một công việc pháp luật không cấm và được quản lý như ở nhiều nước đã có kinh nghiệm, sẽ làm cho môi trường xã hội lành sạch hơn, người làm nghề đỡ thân phận lạc loài và nhà nước thu được thuế…
7. Giáo dục, hình thành con người văn hóa, nhân cách văn hóa.
Nhìn vào thực trạng con người Việt Nam hiện nay nhiều người quá bi quan: bao trùm lên xã hội là dối trá, ích kỷ, vô cảm, bạo lực, lãng phí, cờ bạc, nhậu nhẹt, phân hóa giàu nghèo, lòng người phân ly… Tôi thì thấy con người trong xã hội hiện nay, trộn lẫn cả những thói hư tật xấu đáng sợ với những phẩm chất, khả năng đáng khâm phục, nhiều khi chúng tương phản nhau thật bi hài. Nhân cách hiện nay đang biểu hiện tính hai mặt, tạp, không thuần nhất, khó đoán định. Không thể trừ khử từng cái “tiêu cực” và phát huy từng cái “tích cực” riêng lẻ kiểu “hai không” được, mà phải nhìn con người như một tổng thể, có khả năng biến cải, phát triển mạnh mẽ, nếu cải cách thể chế, tạo ra môi trường phù hợp. Nhiều người ở trong nước cũng giống như mọi người, nhưng ra các nước văn minh sống và làm việc, họ trở nên đàng hoàng, tự biết điều chỉnh bản thân, khắc phục cái xấu, học hỏi cái hay, cái tốt để thích ứng với môi trường sống. Hơn nữa để khẳng định mình, thể hiện giá trị khác biệt của mình, họ liền tìm cách khoe những đặc sắc văn hóa Việt với bạn bè. Nào phở, nào nem rán, bánh chưng, bánh cốm…; nào khéo tay, thân thiện, hiếu khách, tình cảm…; nào áo dài, múa nón, nhạc dân tộc, dân ca độc đáo… được bạn bè ngưỡng mộ. Và họ mới thấy tiếc nuối còn biết bao nhiêu giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc, quý giá mà họ chưa được giáo dục, chưa thể hiện ra được với thế giới. Thiếu quá, tiếc quá! Họ thấm thía rằng mình đã được nhồi nhét bao nhiêu cái vớ vẩn, chẳng giúp gì cho cuộc sống và bao nhiêu cái cần lại không được học! Cái quý giá đã có, cái tiếc nuối còn thiếu đều là văn hóa sống của con người, đều do giáo dục, tự giáo dục mà hình thành.
Nhưng giáo dục, hình thành con người văn hóa, nhân cách văn hóa là quá trình lâu dài, kiên định. “Vì lợi ích trăm năm trồng người” là triết lý đúng đắn. Cần thấy rằng mỗi thiết chế văn hóa - xã hội có những chức năng đặc thù, phải làm tốt công việc của nó một cách bền bỉ, nhất quán; đừng tưởng tất cả đồng loạt, xúm vào ào ào cùng làm một việc là tốt.
GIA ĐÌNH là nơi đầu tiên và nơi cuối cùng con người trải nghiệm cái văn hóa làm người. Gia đình chủ yếu hình thành nên đời sống tình cảm, nghĩa vụ trách nhiệm (tình nghĩa) và cách ứng xử giữa những con người đang sống với nhau và với người đã khuất. Mối quan hệ huyết thống vẫn là mối quan hệ thiêng liêng, bền vững nhất. Bao nhiêu thứ “tình” cũng trôi đi, còn đọng lại bền sâu là tình gia tộc, huyết thống. Giáo dục tâm linh đúng đắn từ gia đình rất quan trọng. Đạo làm người phải từ nền móng gia đình hình thành, phát triển lên; nó đã hỏng từ đây thì thật khó khăn cho xã hội…
- NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG là nơi chủ yếu hướng dẫn cho trẻ lĩnh hội văn hóa chế tạo, sử dụng công cụ của nhân loại theo cách “đi tắt đón đầu” để bắt kịp bước tiến của thời đại; hướng dẫn trẻ trải nghiệm và lĩnh hội tinh hoa văn hóa dân tộc mình và các dân tộc khác; học sinh không chỉ hưởng thụ mà còn biết sáng tạo văn hóa, biết cách sống giữa người với người, giữa các dân tộc sao cho đàng hoàng, tử tế, thân ái, có lý có tình và khẳng định được giá trị văn hóa khác biệt của mình. Quá trình đó cũng đồng thời hình thành nên nhân cách công dân vừa có cái chung của nhân loại, vừa mang bản sắc văn hóa dân tộc mình.
- TRƯỜNG NGHỀ (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học) chủ yếu đào tạo văn hóa nghề nghiệp, nhân cách người làm nghề đáp ứng nhu cầu, yêu cầu của xã hội. Thực chất cũng là tạo ra hàng hóa sức lao động cạnh tranh thắng lợi trên thị trường lao động và biết sống một cuộc đời có ý nghĩa, có văn hóa.
- GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN (học suốt đời) là giúp con người thích ứng với những thay đổi không ngừng và nhanh chóng của môi trường; giúp con người tránh là nạn nhân của những thay đổi; có văn hóa vượt qua giới hạn cá nhân, thích ứng những thay đổi của tự nhiên và với một thế giới muôn màu văn hóa, “thế giới phẳng” để sống chủ động và có ý nghĩa cho mình, cho mọi người…
- TRÊN ĐẠI HỌC không ai giáo dục được nữa, họ tự giáo dục, tự học để phát triển, hoàn thiện và một bộ phận trở thành tầng lớp tinh hoa của xã hội, “nguyên khí của quốc gia”. Vấn đề là ở chỗ thể chế và văn hóa tổ chức quản lý xã hội phù hợp thì tầng lớp này phát triển mạnh mẽ, đem lại những giá trị văn hóa đỉnh cao cho xã hội, “sánh vai cường quốc năm châu”; thể chế và văn hóa quản lý không ra gì thì họ cũng chỉ sống vật vờ, tạo ra những giá trị kiểu “văn hóa bình dân” mà thôi!
- NHÂN CÁCH VĂN HÓA ĐÔ THỊ ở ta chắc còn lâu mới có! Nhìn vào lối sống của người dân Hội An, Đà Nẵng ta có hy vọng, vì thấy được hình hài của văn hóa đô thị, nhưng ở Hà Nội chắc còn lâu lắm. Bộ mặt thành phố quá nham nhở, xô bồ; có nhiều ngôi nhà đẹp nhưng không làm nên cả con phố đẹp; có một vài con đường đẹp, vài tiểu khu đẹp, mà không làm nên cả thành phố đẹp… Nhưng tệ hại nhất là lối sống tùy tiện, cá nhân, ích kỷ, chỉ biết mình của cư dân hiện hữu khắp nơi nơi trong thành phố. Khi nào hầu hết người dân ý thức được mình là một phần của thành phố, biết tự điều chỉnh hành vi của mình để làm đẹp thêm cho thành phố, có ý thức gìn giữ danh dự, bản sắc văn hóa của hành phố, biết tránh gây phiền phức cho chung quanh và biết xin lỗi khi làm phiền người khác, mới thấy hình bóng của nhân cách văn hóa đô thị. Tại sao Hà Nội có bao nhiêu cuộc vận động, bao nhiêu phong trào, bao nhiêu lệnh cấm, bao nhiêu “khu dân cư văn hóa” mà không hình thành được lối sống văn hóa đô thị? Chỉ nhìn vào cái vỉa hè, cứ đào lên, lát lại liên tục mà chưa bao giờ xứng với cái vỉa hè đô thị, đủ biết có văn hóa đô thị, còn lâu lắm!
- NHÂN CÁCH VĂN HÓA LÃNH ĐẠO. Nói chung, chỉ đào tạo được tri thức, kỹ năng quản lý chứ không giáo dục, đào tạo nên nhân cách lãnh đạo được. “Quy hoạch” cán bộ lãnh đạo lại càng khó. Những nhà lãnh đạo là tinh hoa của tinh hoa. Từ cuộc sống xã hội đầy thử thách, họ có tư chất, có chí hướng vươn lên, dấn thân trải nghiệm, tự đúc rút kinh nghiệm, tự học hỏi hoàn thiện mình, tự làm nên nhận cách có bản lĩnh lãnh đạo, có phong cách hấp dẫn, thu hút được quần chúng; có tầm nhìn xa và có vai trò vạch đường, chỉ lối, tiên phong, dẫn dắt… Nhân loại đã tìm ra phương thức hiệu quả để sàng lọc, chọn ra những người có nhân cách lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của xã hội trong từng hoàn cảnh lịch sử. Đó là cơ chế cạnh tranh, sàng lọc quyết liệt (không phải quyết liệt với dân!); có cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả, công khai và thấy ai không phù hợp thì loại bỏ kịp thời, thay ngay bằng người phù hợp hơn. Mỗi người lãnh đạo biết rõ vai trò và thân phận của mình trước xã hội; họ phải nỗ lực tự hoàn thiện và chứng minh văn hóa lãnh đạo trước nhân dân. Dân tín nhiệm thì họ tiếp tục, dân bất tín nhiệm thì họ khôn khéo rút lui mau lẹ có văn hóa, để tránh gây phản cảm cho xã hội và học hỏi từ bài học thất bại để tiếp tục tìm cơ hội tái xuất trên chính trường. Đó là điểm cơ bản của văn hóa lãnh đạo. Quy luật đào thải tự nhiên như vậy sẽ tránh dẫn đến tình trạng ứ đọng hàng loạt cán bộ lãnh đạo các cấp đã mất uy tín, thành “bầy sâu” đục khoét xã hội, mà “kỷ luật hết, lấy cán bộ dâu mà làm việc” (!). Chính “bầy sâu” đe dọa sự tồn vong của đảng cầm quyền, chứ không phải ai khác! Không có biện pháp nào hữu hiệu để giáo dục được nhân cách người lãnh đạo; chỉ có thể chế giám sát khách quan, thải loại kịp thời người không đủ tín nhiệm mới răn đe được họ, khiến họ phải tự ý thức, tự học hỏi, tự điều chỉnh để xứng đáng sự tín nhiệm, tránh sự phế truất của nhân dân, sự phán xét của lịch sử… Điều ấy lại phụ thuộc vào thể chế, vào văn hóa công dân của cả xã hội. Lịch sử đã chứng minh: dù người lãnh đạo lúc mới cầm quyền rất tốt, nhưng thể chế độc tài sẽ làm người lãnh đạo tha hóa nhân cách, dẫn đến những suy nghĩ, hành động phản lại văn hóa lãnh đạo.
Con người văn hóa, nhân cách văn hóa ở ngành nghề gì, cấp độ nào cũng phải thấm nhuần những giá trị chung làm nên NHÂN CÁCH CÔNG DÂN, VĂN HÓA CÔNG DÂN. Người dân chỉ biết phục tùng mệnh lệnh, hùa theo tập thể, làm theo phong trào một cách a dua, máy móc là ở trình độ nhân cách sơ khai, văn hóa thấp kém; sẽ rất nguy hiểm cho xã hội, khi mệnh lệnh không còn hiệu quả, tập thể rệu rã, phong trào tự phát… Tản Đà (1889 - 1939) viết: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn/ Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”, rất sâu sắc, nói lên khía cạnh dân ta chưa trưởng thành về nhân cách công dân. Nhân cách công dân, văn hóa công dân phải được hình thành, phát triển, định hình từ thể chế của một xã hội công dân.
8. Văn hóa quản lý văn hóa. Tôi không rõ hệ thống quản lý văn hóa, nên xin phép gặp đâu nói đấy.
- Quản lý văn hóa phải “Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau/ Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu” (Tố Hữu, 1920 - 2002), không thể cắt khúc ra từng nhiệm kỳ! Cứ mỗi nhiệm kỳ lại “tân quan tân chính sách”, phải “đột phá” cái này, “dứt điểm” cái kia, dấy lên phong trào nọ… Nhiều công trình “trùng tu” phải giải quyết trong nhiệm kỳ, nên đập béng cái cũ đi, xây mới cho nhanh, mà cái khoản tài chính nó cũng nhanh, gọn, ra tấm ra miếng! Nhiều phong trào cũng phải tổng kết, báo cáo thành tích kịp thời để nhiệm kỳ có “dấu ấn”!... Nhiệm kỳ nào cũng chất chồng thành tích, đầy huân huy chương, bằng khen, cờ thi đua xuất sắc… nhưng có ai hỏi cái giá trị văn hóa đọng lại được bao nhiêu?!
- Tôi không thể hiểu tại sao, mọi cấp lãnh đạo đều có quyền “phá đi làm mới” những di sản văn hóa, bất chấp giá trị lịch sử. Ở quê tôi, chi bộ (thực chất là mấy ông chi ủy) quyết định phá sạch đình, chùa, đền miếu cũ; bây giờ gạ được mấy đại gia công đức xây lại đình chùa mới, liền nhau, bê tông cốt thép! Mười hai họ trong làng xây 12 cái ki-ôt sát bên đình, thành một dãy liền kề, bằng nhau chằn chặn, mỗi cái chừng 7m2, gọi là Từ đường của mỗi họ. Bao nhiêu làng xã đã bị đập bỏ hết đình, chùa, cổng làng, cầu đá…? Mỗi ông bộ trưởng lên lại nhập, tách trường đại học này với trường kia, viện nghiên cứu này với viện nghiên cứu khác… Bao nhiêu truyền thống với những cái tên danh tiếng bị xóa sạch! Mỗi ông tổng biên tập mới lên lại thay măng-set tờ tạp chí, tờ báo! Bao nhiêu đội bóng đá danh tiếng giàu truyền thống bị xóa sạch; có những đội bóng khốn khổ, lúc ghép với tên ngân hàng, lúc xi măng, dầu khí, lúc phân bón…! Một anh trưởng phòng hành chính cũng có quyền đập bỏ cái cổng cơ quan, vứt tên biển cơ quan, xây cổng mới, thay biển mới; vứt hết bàn ghế cũ thay mới hoàn toàn… Đố ai còn tìm thấy cái bàn ghế của giáo sư Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đại Nghĩa, Lương Đình Của, nhạc sĩ Văn Cao, nhà văn Nguyễn Đình Thi… từng ngồi ở cơ quan trước đây! Thử nhìn sang các nước văn minh, xem có ai làm những việc như thế không?!
- Quản lý các văn nghệ sĩ, các nhà khoa học rất dễ, nếu tạo điều kiện cho họ tự do hoạt động sáng tạo; nhưng sẽ vô cùng khó khăn, vô vọng nếu cứ muốn “quản chặt, nắm chắc” lấy tư tưởng của họ, công việc của họ, sợ họ không theo mình! Cái kiểu dùng “tập thể” để áp đảo các cá nhân khác biệt không được nữa. Xử lý một cá nhân tưởng dễ, nhưng cá nhân đó đại diện cho một khuynh hướng nghệ thuật, xu hướng xã hội sẽ không hề đơn giản.
- Cái gì không quản được thì cấm là cách quản lý ấu trĩ. Cấm đoán chỉ là mặt trái của cách tổ chức một hệ thống tích cực; càng ít cấm càng chứng tỏ văn hóa tổ chức quản lý cao. Tôi xin đề nghị ngành văn hóa chịu khó thống kê xem từ 1945 đến nay, ta đã ban bố bao nhiêu lệnh “cấm” và có mấy cái kết quả? Một đề tài Tiến sĩ rất hay đấy. Tôi nghĩ có đến hàng trăm, hàng nghìn lệnh cấm từ cấp huyện, tỉnh, đến các bộ, ngành trung ương, nhưng hình như chỉ có mỗi cái “cấm đốt pháo” là có kết quả. Ai ra lệnh cấm mà không đem lại kết quả, phải chịu kỷ luật, vì như vậy là dốt, làm hỏng văn hóa quản lý!
- Không thể lấy “toàn hệ thống chính trị” thay cho các thiết chế văn hóa - xã hội được. Ông Tố Hữu trước đây từng nói: Mỹ có tên lửa ba tầng, ta có “tên lửa bốn tầng”. Đó là “con người mới” được đào luyện qua bốn tổ chức liên hoàn: nhi đồng - thiếu niên - thanh niên - đảng viên…! Vậy sao những “con người mới” được “luyện” qua “bốn tầng lò” lại thành sản phẩm như ngày nay? Hãy quản lý văn hóa bằng cách xây dựng đồng bộ các thiết chế văn hóa - xã hội ở cộng đồng dân cư và tổ chức những sinh hoạt văn hóa như vốn nó thường tồn. Cần bớt quản lý văn hóa bằng chỉ thị, mệnh lệnh, khẩu hiệu “đồng loạt ra quân”, “dấy lên phong trào”, “thi đua thực hiện”, “chỉ đạo quyết liệt”… (Những nước không xài các món này, văn hóa của họ vẫn tốt lắm). Văn hóa là những cái tích tụ, lắng đọng, vun xới lớn dần lên mới đâm hoa kết trái, không tiền trao - cháo múc, chộp giựt, đổ khuôn ngay đươc!
- Xin bớt cờ, đèn, kèn, trống, loa đài, pano, áp phíc, khẩu hiệu… đi! Năm 1945, 1954, 1975 thì dân ta rất khoái những thứ đó, nhưng cái gì lặp lại mãi cũng nhàm chán ít tác dụng, rồi phản tác dụng! Ngay những người làm công việc đó cũng làm như máy, vô cảm, nhiều sai sót. Mà tốn kém, lãng phí sức người, sức của. Rồi một cái đền, chùa nhỏ xíu cũng có đến 5-7 hòm “công đức”, nhìn thấy ghê ghê! Mỗi đền chùa chỉ nên có một “hòm” là đủ.
- Xin bớt chính trị hóa các sinh hoạt văn hóa dân sự đi! Ngày giỗ các cụ Tổ của tôi, là Mạc Đĩnh Chi, Mạc Đăng Dung… vua quan đại phong kiến, mà địa phương cũng treo đầy cờ búa liềm, thì các cụ nhìn thấy hãi hết hồn, sao dám về! Tôi đã thấy nhiều hình ảnh đám cưới, buổi họp mặt đồng hương, giỗ họ, liên hoan, thi nấu ăn, tiếp thị mỹ phẩm phụ nữ, thi tìm hiểu sức khỏe sinh sản vị thành niên… cũng cứ phải có quốc kỳ, cờ búa liềm và tượng Cụ Hồ chứng kiến!
Dân ta thường bảo “vui như Tết”, “vui như hội”, nhưng nhiều nơi những buổi tổ chức “vui Tết”, “khai hội” mà dân phải nghe đủ các cấp lãnh đạo lên huấn thị dài dòng, mất hết vui! Khổ nhất là các cháu học sinh trong ngày khai trường và tổng kết năm học, nhất là trường nào lại được huân chương hay bằng khen càng khổ; các bác lãnh đạo lên dạy “làm người” thế này thế kia, hiệu trưởng lên đáp lễ, phụ huynh lên căn dặn, học sinh lên hứa hẹn… Nhiều em ngồi nghe chán quá chọc ghẹo nhau thì bị cô chủ nhiệm lườm, đe ghi sổ liên lạc! Nhiều học sinh còn sợ nhất là sáng thứ hai chào cờ. Đứa nào có tội lỗi gì bị đem ra phán xét dưới quốc kỳ trước toàn trường!...
Ôi, văn hóa quả là mênh mông, kỳ thú, đi mãi chẳng biết đâu là bến bờ!
Xin phép dừng ở đây.
Hà Nội, ngày mồng 5 Tết Giáp Ngọ (04/2/2014)
M. V. T.

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014

Luận bàn về bài viết "Tổ Quốc cần những con người mới" của Nguyễn Đắc Kiên

Chim Báo Bão (Danlambao) - Hôm nay lên mạng nhân đọc bài "Tổ Quốc cần những con người mới" của ký giả Nguyễn Đắc Kiên (NĐK). Sau khi đọc xong bài viết, dựa trên tinh thần dân chủ, thẳng thắn cởi mở tôn trọng những ý kiến khác biệt, tôi có một vài suy nghĩ nhằm phản biện lại bài viết trên của anh. Sau đây tôi xin có ý kiến  tập trung vào phần 1 bài viết  của NĐK, nhằm làm sáng tỏ vấn đề trên và rộng đường cho dư luận nhận xét bài viết trên của NĐK.

Đúng như lời dẫn của tác giả sau ba tháng im hơi lặng tiếng kể từ khi gây lên scandal công khai chỉ trích ông trùm độc tài toàn trị Nguyễn Phú Trọng. NĐK đã tập trung nghiền ngẫm phân tích để rồi cho ra bài viết "Tổ quốc cần những con người mới". Sau phần dẫn lời, tác giả giới thiệu phần một của bài viết với nhan đề "Một con đường cải tổ". Phần I, NĐK đi sâu vào phân tích và nhận định cái gọi là nhóm cấp tiến trong nội bộ chóp bu của đảng cầm quyền. Sau khi phân tích bản chất của hai nhóm bảo thủ và nhóm lợi ích, tác giả nhân định đã xuất hiện nhóm thứ 3, nhóm cấp tiến thông qua hai sự kiện là xét kỷ luật đồng chí X và việc không bầu hai nhân vật được dự định lựa chọn vào ghế của bộ sậu đầu não và NĐK hy vọng vào việc vận động nhóm cấp tiến này đề làm một cuộc cách mạng về dân chủ v.v...

1. Hai sự kiện thể hiện lợi ích phe nhóm

Nếu chỉ xét về hai sự kiện, một là bỏ phiếu không kỷ luật đồng chí X, hai là không bỏ phiếu bầu Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào ghế ủy viên bộ chính trị, để nhận định có nhóm cấp tiến thì tôi e rằng NĐK chưa đúng và có phần gượng ép. Hai sự kiện trên không hề dính dáng gì tới cái gọi là cấp tiến, là dân chủ vì nó chẳng thể hiện một chút gì đến lợi ích của đất nước, thậm chí còn ngược lại, sự kiện trên đã gây thất vọng lớn cho dư luận. Có chăng tôi thấy sự kiện không kỷ luật đồng chí X cho thấy, khi cảm thấy quyền lợi cá nhân bị xâm phạm, nếu như đồng chí X bị đổ, sẽ kéo theo hệ lụy của rất nhiều đồng chí khác trong bộ chính trị và TW bị đổ theo, cũng như có thông tin đồng chí X đã vận động ngoài hành lang gửi mỗi đồngchí UVTW một phong bì 1 triệu USD gọi là chút quà mọn. Vì vậy việc bỏ phiếu không kỷ luật đồng chí X là một nước cờ khôn ngoan, nó chứng tỏ rằng bộ máy cai trị của đảng, quyết tâm tham nhũng đến nhường nào. 

Vấn đề thứ hai là không bỏ phiếu cho Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ, cũng là vấn đề biểu hiện phe nhóm đấu đá nhau và ngăn cản, không muốn cho nhân vật "làm tới liền" có cơ hội để thể hiện. Loại bỏ một nhân vật quá "nóng" trên con đường tham nhũng của nhiều đồng chí chưa bị lộ, là một chỉ dấu tiêu cực phe nhóm chứ đâu phải là cấp tiến dân chủ.

Vì vậy hai sự kiện trên thực chất chỉ là nhằm bảo vệ lợi ích của đa số các UVTW mà thôi, phải chăng NĐK đã nhầm việc dân chủ hóa trong nội bộ đảng độc tài, chứ không phải dân chủ mang tính xã hội, hai phạm trù này về ý nghĩa và bản chất hoàn toàn khác nhau. Một sự kiện khác không kém phần quan trọng nhằm bổ xung cho nhận định trên của tôi, là việc vội vàng thông qua hiến pháp mà chỉ sửa đổi chiếu lệ cho thấy đảng CSVN còn rất ngoan cố và bảo thủ, nhằm bảo vệ chế độ đến cùng, chứ không hề có lực lượng cấp tiến như tác giả NĐK đã nhận định.

Có hay không lực lượng cấp tiến trong nội bộ chóp bu của đảng cầm quyền

2. Có hay không lực lượng cấp tiến!

Xin thưa là không hề có lực lượng cấp tiến nào trong nội bộ đảng CSVN như nhiều người đã lầm tưởng, có chăng chỉ là một vài cá nhân có tư tưởng cấp tiến khi đã về vườn, hoặc một vài vị ngồi ở chiếc ghế hữu danh vô thực, ít mầu mỡ như bộ tư pháp, bộ nội vụ... không cam phận muốn phá ngang, hay muốn thể hiện được đảng cho làm quân xanh, đăng đàn trên báo chí phát biểu vài vấn đề, được cho là có tư tưởng cấp tiến nhằm ghi điểm mà thôi.

Những ai để tâm tìm hiểu về cơ cấu tổ chức của đảng cầm quyền đều biết. Cơ chế và qui chế đề bạt cán bộ của đảng CSVN với những tiêu chí hết sức chặt chẽ và ích kỷ. Họ không cần người tài đức mà chỉ cần người trung thành. Trung thành tuyệt đối với đảng (Thực ra những người này họ trung thành với cái túi của chính họ thì đúng hơn, vì họ cũng thừa biết, hệ thống tư tưởng của Max từ lâu đã bị vứt vào sọt rác, bản thân đảng của họ thực chất có đi theo chủ nghĩa Max nữa đâu mà trung thành). Những thành phần này được gọi là cán bộ nguồn, được thử thách, rèn luyện và bồi dưỡng từ cấp cơ sở lên đến TW. Ngoài tiêu chí trên những cán bộ này phải có thân thế sự nghiệp mang dòng dõi con ông cháu cha, được kế vị từ lớp cha anh trước để lại, hoặc có ô dù để được nâng đỡ và tất nhiên tiềm lực kinh tế dồi dào để vận động ngoài hành lang, với các đồng chí không quên kèm theo phong bì lót tay để được ủng hộ, bỏ phiếu cho họ được ngồi vào những vị trí béo bở. Nói chung những cán bộ cốt cán của đảng ở các cấp cho tới TW trở lên đều phải có hai tiêu chí cơ bản là trung thành và tiềm lực để vượt qua các vòng tuyển lựa mới được vào UVTW.

Nghề làm "quan" là nghề béo bở nhất hiện nay và tất nhiên họ phải đầu tư, khi đã ngồi vào chiếc ghế nóng và thời cơ đã đến, họ phải tìm mọi cách thu về những khoản đã đầu tư và đương nhiên là phải sinh lời. Con người sinh ra khác loài vật là có tính tham, mà lòng tham thì vô đáy, các cán bộ cao cấp của đảng cũng là như con người và đương nhiên họ cũng nằm trong cái qui luật trần tục đó, họ cũng lợi dụng chức tước để vơ vét, tham nhũng như những kẻ làm quan trước kia, thậm chí còn hơn, nhiều kẻ với hàm bộ trưởng, nhẩm tính không thu về trăm triệu một ngày, thì kể như ngày đó là lỗ. Với đa số thành phần được chọn lọc kỹ lưỡng như vậy, thì làm những người có tư tưởng cấp tiến làm sao lọt vào được đến cấp UVTW. Vì  vậy việc nhận định có lực lượng cấp tiến trong nội bộ chóp bu của đảng cầm quyền là không thực tế. Có chăng hiện nay trong nội bộ đảng cầm quyền đang hình thành hai phe nhóm chống đối nhau quyết liệt, đó là phe đảng và phe chính quyền, nhằm phân chia lại quyền lợi mà phe chính quyền của 'đồng chí X' đã lạm quyền, qua mặt đảng mấy năm về trước để tha hồ tung hoành vơ vét. Nay đảng không thể khoanh tay ngồi nhìn và phải giành lại quyền lợi về cho mình bằng cơ chế tập trung dân chủ, đảng lãnh đạo, cấp ủy quyết định như trước đây đã từng làm.

Kết luận: Nhận định và phân tích tình hình đất nước, trong đó nhận định về tư tưởng nội bộ đảng cầm quyền là việc hệ trọng. Số phận dân tộc trong tay họ. 

Nhưng nếu nhận định không có cơ sở, không sát với thực tế, vô tình định hướng dư luận trông chờ vào điều không tưởng là điều đáng tiếc không chỉ với Nguyễn Đắc Kiên, mà trước đây đã có rất nhiều nhận định mơ hồ, nào là tình hình biến động ở các nước Châu Âu, tình hình kinh tế suy thoái, rồi cộng sản bất chính, tàn ác như vậy, dẫn đến mất lòng dân, sơm muộn sẽ bị lật đổ. Với kiểu nhận định hão, vô thưởng vô phạt như vậy vô tình gieo vào lòng mọi người sự thỏa hiệp an bài. Làm mất đi ý chí trong cuộc đấu tranh chống độc tài, vì một nền dân chủ hóa đất nước. Trên đây là nhận xét mang tính cá nhân của tôi, mong nhận được ý kiến phê bình đóng góp của quí vị. Xin cảm tạ!  

Hà Nội, ngày 19/3/2014

Một con đường cải tổ

cọp bài của anh Kiên :
Lời dẫn
Ba tháng qua tôi đã có thời gian để suy xét lại về những điều tôi đã cho là đúng và cả những điều tôi đã cho là sai trước đó. Cũng trong ba tháng qua tôi có điều kiện quan sát gần hơn, tiếp cận gần hơn, có điều kiện để biết nhiều hơn, hiểu rõ hơn về các xu hướng vận động của nền kinh tế – chính trị nước nhà. Đó là khoảng thời gian quý báu với riêng tôi. Có thể coi đề xuất, chương trình, ý kiến… gọi là gì cũng được mang tên “MỘT CON ĐƯỜNG CẢI TỔ” ở dưới là kết quả của 3 tháng vừa rồi. Bài viết này xuất phát từ ý thức dân tộc, ý thức về trách nhiệm của một cá nhân, một công dân với vận mệnh dân tộc.
Tôi đã cố gắng giữ cho mình nguyên tắc, đứng ngoài mọi phe nhóm, mọi tổ chức chính trị, trong hay ngoài nước, trong hay ngoài Đảng Cộng sản để giữ cho mình một sự độc lập nhất định về tư tưởng. Hay nói cách khác, tôi chọn cho mình một con đường tri thức độc lập. Đó là tôn chỉ tôi đã theo và sẽ theo. Bài viết này, vì thế tôi mong mọi người được đọc với một tinh thần khách quan như vậy.
Về riêng bản thân tôi, tôi đã hoạch định cho mình một kế hoạch cá nhân và đã bắt đầu thực hiện kế hoạch này. Tôi đang theo học tiếng Đức với hy vọng có thể theo học và nghiên cứu triết học một cách bài bản tại Đức. Triết học là đam mê của cá nhân tôi, mặt khác, cá nhân tôi cho rằng, không một quốc gia nào có thể phát triển bền vững nếu không có nền Triết học, Toán học vững chắc. Tôi hy vọng rằng, mình có thể đóng góp một phần nhỏ bé vào việc phục dựng lại, đặt lại những nền móng Triết học cho nước nhà, công việc mà theo tôi biết, đã có nhiều con người đáng kính đã làm và đang làm.
Trong quá khứ không xa, miền Nam Việt Nam trước năm 1975, đã có một thế hệ những người nghiên cứu và làm Triết học một cách bài bản, tạo ra một trào lưu mà bất cứ ai đọc lại những tác phẩm của họ tôi vẫn thấy một niềm kỳ vọng, một sự khích lệ lớn lao, đó là những tên tuổi như: Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung… và miền Bắc là Trần Đức Thảo, Trường Chinh, Hồ Chí Minh… Thời qian qua, tôi cũng có tìm đọc lại các tác phẩm của Trường Chính, nếu bỏ qua các định kiến ý thức hệ, thì ta có thể tìm thấy ở Trường Chinh, Hồ Chí Minh nhiều nhân tố triết học thực hành có giá trị. Tôi cũng có điều kiện tiếp cận với ý tưởng triết học rất thú vị của Lê Quý Đôn. Riêng Lê Quý Đôn tôi nghĩ mình cần thêm nhiều thời gian để nghiên cứu ông và có thể từ ông sẽ khơi gợi, phục dựng được nhiều giá trị văn hóa, triết lý mang bản sắc Việt.
Người ta vẫn thường hô hào “Giữ gìn bản sắc dân tộc”, lĩnh hội “Tinh hoa văn hóa nhân loại”… nhưng tôi chưa thấy họ thực sự đã làm gì để đạt được những mục tiêu này. Cá nhân tôi cho rằng, việc học tập những phương pháp nghiên cứu, tinh thần dân chủ, khoa học phương tây, đặc biệt với giới trẻ là điều kiện tiên quyết. Chúng ta không thể cứ ngồi một chỗ, giữ khư khư những thứ mà ta cho là hay, là tốt mà lại không biết nó thực sự có vị trí như thế nào trong thế giới tư tưởng nhân loại. Tôi thấy rằng, mỗi khi chúng ta quên mình đi nhiều nhất, mở rộng lòng mình ra nhiều nhất, gỡ bỏ những định kiến, những thói quen xưa cũ nhiều nhất, là mỗi khi mình nhìn thấy mình rõ nhất, ta mình tự nâng mình lên nhiều nhất.
Tôi cũng sáng lập ra một nhóm gọi là Nhóm Thứ-Ba. Đây không phải là một nhóm chính trị. Mọi người có thể thấy rõ điều đó khi đọc nguyên tắc nhóm. Mục tiêu của tôi khi lập ra nhóm này là muốn khơi gợi tinh thần trung thực, ý chí tự cường, tinh thần dám phiêu lưu khám phá những chân trời mới, dù là trong cuộc sống hay trên con đường truy tầm chân lý. Tôi cho rằng, đó sẽ là những tinh thần mà người Việt chúng ta cần trên con đường chấn hưng đất nước.
Những giá trị này tôi đã tìm thấy khi tiếp cận triết học F.Nietzsche. Tôi đã từng đặt những câu hỏi, tại sao phương Tây phát triển như ngày nay, tại sao họ có được nền khoa học, tinh thần dân chủ, khoa học như ngày nay? Tại sao phương Đông lại đứng lại lâu thế? Những động lực nào thúc đẩy xã hội con người tiến lên? Tôi nghĩ rằng, mình có thể tìm được những câu trả lời căn bản khi đọc F.Nietzsche.
Thời gian qua, được tiếp cận nhiều hơn với những con người dân chủ, tiến bộ (quan facebook, blog…), tôi cũng có dịp tiếp cận nhiều hơn với các luồng thông tin, tri thức mới, nhận thấy rõ hơn những con người tri thức cao quý, tiến bộ… những con người này mang lại cho tôi kỳ vọng lớn lao nếu có thể tập hợp lại được dưới ngọn cờ dân tộc thống nhất.
Do công việc học tập và nghiên cứu của mình, tôi cũng hy vọng mọi người có thể ưu ái cho tôi một thời gian yên tĩnh cần thiết không phỏng vấn, không mời gọi ra nhập nhóm này, nhóm kia. Tôi xin nhắc lại tôi chọn con đường tri thức độc lập.
Trân trọng
Nguyễn Đắc Kiên
MỘT CON ĐƯỜNG CẢI TỔ
Chương 1
Tình thế hiện nay
  1. 1.     Nhận diện nhóm cấp tiến
Hội nghị Trung ương 6 và 7 của Đảng cho thấy phe bảo thủ, muốn kiên trì định hướng XHCN theo học thuyết Marx-Lenin đang ở thế yếu.
Cuộc vận động tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong quần chúng cho thấy, một bộ phận không nhỏ người dân đã ý thức mạnh mẽ về quyền lực chính trị của mình. Họ sẵn sàng là lực lượng đi đầu thúc đẩy tiến trình dân chủ, tự do cho đất nước.
Nhưng sẽ là quá lạc quan nếu ai đó, đưa ra một dự đoán nhất quyết về một cuộc cải tổ trong tương lai ngắn hạn ở VN.
Tình thế hiện nay, trong nội bộ ĐCS, nhóm lợi ích đang tỏ ra chiếm ưu thế hơn nhóm bảo thủ. Nhưng cả hai nhóm này đều sẽ là trở lực cho tiến trình dân chủ. Nhóm lợi ích đôi khi tỏ ra cấp tiến, tuy nhiên những người theo dõi chính trường VN đã quá quen với những thủ đoạn, những trò lật lọng của nhóm này. Sẽ chẳng ai ngạc nhiên nếu khi nhóm này đã đạt được mục đích thâu tóm quyền lực sẽ quay mũi giáo, chống lại nhân dân, đàn áp lực lượng dân chủ.
Lực lượng bảo thủ trong đảng, nhóm lợi ích cùng với thế lực bành trướng Bắc Kinh rõ ràng sẽ là những trở lực lớn nhất cho dân chủ, cũng là hiểm hoạ lớn nhất đẩy VN vào đêm dài lạc hậu, suy thoái, thậm chí hỗn loạn.
Sự đối đầu giữa phe bảo thủ và phe nhóm lợi ích, đặc biệt trong hai Hội nghị Trung ương vừa qua làm người ta nhầm tưởng rằng trong chóp bu ĐCS hiện chỉ có hai lực lượng này. Tuy nhiên, ngày càng có những chỉ dấu rõ ràng cho thấy, trong thượng tầng nội bộ đảng còn có nhóm thứ ba – nhóm cấp tiến. Việc Hội nghị Trung ương 6 không kỷ luật “đồng chí X”, Hội nghị Trung ương 7 không bầu hai ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ, hai ứng cử viên do Bộ Chính Trị giới thiệu có thể coi là một chỉ dấu cho thấy sự tiến bộ về ý thức dân chủ của các uỷ viên trung ương. Việc hai ông Thanh và Huệ không trúng ghế ủy viên BCT chưa chắc đã là do nhóm lợi ích mạnh. Nhóm lũng đoạn có thể chỉ làm một động tác phá quấy là đưa thật nhiều ứng viên ra tranh cử, sau đó các Ủy viên Trung ương, với ý thức đã tiến bộ về quyền lực của mình làm nốt phần việc còn lại là loại ông Thanh và ông Huệ. Việc các Ủy viên TƯ không bỏ phiếu cho hai ông này, cũng không thể quy kết ngay cho họ là ủng hộ nhóm lợi ích. Họ chọn ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Nguyễn Thị Kim Ngân có thể đơn giản chỉ là do họ thấy những vị này thích đáng hơn.
Những đảng viên cấp tiến, có thể ngay ở trong Bộ Chính Trị, ngay trong các vị Ủy viên TƯ có thể tạo ra những diễn tiến bất ngờ khi họ bỏ tấm mạng che bước ra ánh sáng chính trường.
  1. 2.     Phe dân chủ ngoài Đảng thiếu một lực lượng vật chất
Việc nhận diện ra lực lượng thứ ba, lực lượng tiến bộ trong nội bộ nhóm lãnh đạo của ĐCS hiện nay là rất quan trọng. Nếu có thể vận động được lực lượng này gắn kết lại với nhau, cùng với lực lượng tiến bộ ngoài đảng tiến hành cải tổ đất nước thì đây có lẽ sẽ là phương án ít mạo hiểm có thể thu được các bước tiến vững chắc nhất.
Không khó để nhận thấy lực lượng dân chủ ngoài đảng cả trong và ngoài nước hiện nay phân tán. Nếu có thể quy tụ lại cũng dễ tan vỡ. Lực lượng trong nước thì gặp cản trở từ phía chính quyền, định kiến xã hội. Lực lượng ngoài nước có môi trường thuận lợi hơn nhưng lại dễ bị chia rẽ, thậm chí xung đột.
Sự phân tán này sẽ hiển hiện khi ta đặt câu hỏi: Lực lượng vật chất nào? Khối quần chúng nào có đủ sức mạnh đối kháng thách thức quyền lãnh đạo ĐCS hiện nay?
Tìm kiếm sự hỗ trợ vật chất từ các nước phương Tây cũng là một sự lựa chọn mạo hiểm và khó khả thi trong các mối quan hệ quốc tế hiện nay. Hơn nữa, một mang một lực lượng đối kháng đủ mạnh để đương đầu với chính quyền hiện hành luôn mang theo nguy cơ bạo loạn, tốn xương máu mà chính quyền mới được dựng lên nếu có thể cũng không có gì đảm bảo là sẽ ít độc tài hơn chính quyền cộng sản hiện nay.
Vận động để nhóm cấp tiến trong nội bộ ĐCS lên nằm quyền và tiến hành cải tổ có thể là lựa chọn sáng suốt nhất trong tình hình hiện nay. Nhận định này nhiều khả năng sẽ ngay lập tức bị phản đối với những người có nhiều ân oán với cộng sản cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nếu điềm tĩnh lại để suy nghĩ thì họ sẽ thấy lựa chọn này thật sự không tồi. Và bản thân những định kiến của họ cũng không phải là không thể vượt qua. Rào cản lớn nhất, lâu dài nhất, ám ảnh dai dẳng nhất có lẽ là rào cản ý thức hệ. Rào cản do cả hai phe Quốc gia và Cộng sản đã cố công dựng lên đến giờ vẫn như bóng đen bao trùm, cản trở mọi nỗ lực cải tổ, hoà hợp.
  1. 3.     Ngọn cờ dân tộc thống nhất
Có thể còn một số ít người trong phe bảo thủ vẫn thực lòng muốn bảo vệ học thuyết cũ. Với phe nhóm lợi ích học thuyết cũ cũng có giá trị khi nó còn giúp họ núp bóng, trục lợi, vì thế họ cũng có lí do để lớn tiếng bảo vệ ĐCS khi cần phải chống lại nhóm cấp tiến.
Nhóm cấp tiến, cách gọi có thể khiến nhiều người cảm thấy băn khoăn trong thời điểm hiện nay khi hình thù của nó vẫn mờ mịt, những đại diện của nó vẫn lặng câm trong bóng tối. Điều này cũng dễ hiểu. Ngoài uy thế lấn lướt của nhóm bảo thủ và nhóm lợi ích, những người cấp tiến trong ĐCS hiện nay, tự bản thân họ cũng phải vượt qua rào cản ý thức hệ. Cũng như những người Quốc gia không dễ gì xoá bỏ định kiến ý thức hệ Cộng sản, những người cấp tiến trong đảng hiện nay cũng không dễ gì tuyên bố thẳng thừng việc rời bỏ con đường Marx – Lenin, dù họ có biết chắc chắn con đường đó chỉ dẫn dân tộc đến lạc hậu, tăm tối, bại vong. Cũng như những người chống cộng cực đoan, họ cần sự trợ giúp.
Đây có thể chính là thời điểm để khối quần chúng tiến bộ trong và ngoài đảng thể hiện vai trò vận động của mình. Đây có thể là thời điểm thích hợp nhất để ngọn cờ dân tộc thống nhất một lần nữa lại cần phất lên. Lực lượng tiến bộ trong hay ngoài đảng, quần chúng hay lãnh đạo, đương chức hay đã nghỉ hưu, trong hay ngoài nước… cần đứng lại với nhau, cùng một chiến tuyến, không phân biệt người Quốc gia, người Cộng sản, bỏ hết mọi định kiến ý thức hệ, chỉ hướng đến một ngọn cờ duy nhất, ngọn cờ dân tộc thống nhất, vì một nước Việt Nam thống nhất phát triển.
Sự vững vàng về mặt an ninh quốc gia hiện nay cần được xem như một lợi thế để tiến hành cải tổ. Tình hình có thể sẽ xấu đi khi nhóm lợi ích ra tay hành động, gây hỗn loạn để thừa nước đục thả câu, sẽ đặc biệt nguy hiểm nếu có thêm bàn tay can thiệp của nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc.
Chương 2
Cải cách kinh tế
  1. 1.     Loại bỏ sự thao túng của nhóm lợi ích
Tình trạng nền kinh tế VN hiện nay khá giống với Đài Loan những năm 1940-1950 (khi đó Đài Loan là một tỉnh của Trung Hoa Dân Quốc). Nền kinh tế Đài Loan khi đó nằm trong tay nhóm lợi ích của Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn. Cũng giống như Việt Nam hiện nay, nhóm lợi ích của Khổng, Tống lộng quyền, tham ô, hết thao túng các công ty quốc doanh, tài nguyên quốc gia vơ vét vào túi riêng đến nắm các ngân hàng, “chuyển trọng tâm tư bản nhà nước sang kinh doanh tiền tệ vàng bạc và đầu cơ”. Nhóm Khổng, Tống khi đó cũng áp dụng các chính sách vơ tận, vét sạch, phát hành trái phiếu, “vay nợ nước ngoài một số tiền lớn để ăn chiết khấu và trưng thu đủ các loại thuế, cưỡng bức vơ vét tài sản của dân”. Nền kinh tế Đài Loan khi đó cũng bị khủng hoảng trầm trọng. Chỉ sau khi Khổng Tường Hy và phe nhóm của ông ta tháo chạy sang Mỹ, Trần Thành và Tưởng Kinh Quốc lên nắm quyền mới tiến hành những cải cách căn bản, đặt nền móng cho một Đài Loan cất cánh sau này (Tham khảo: Hoàng Gia Thụ – Đài Loan tiến trình hóa rồng).
Cải cách của Trần Thành,  Tưởng Kinh Quốc khi đó đặt trọng tâm vào hai chính sách lớn: Thứ nhất cải cách ruộng đất; thứ hai nâng đỡ khối dân doanh.
Ruộng đất ở Đài Loan trước cải cách đa phần nằm trong tay địa chủ, chính quyền Đài Loan đã đặt ra cơ chế hạn điền, buộc những điạ chủ chiếm nhiều đất hơn hạn mức phải bán lại cho những nông dân không có ruộng. Tiền bán ruộng do người mua trả dần, chính phủ cũng đứng ra hỗ trợ thu mua hỗ trợ nhưng không trả bằng tiền mặt mà bằng cổ phiếu trong các doanh nghiệp quốc doanh. Cũng nằm trong chiến lược nâng đỡ khối dân doanh ở Đài Loan khi đó, song song với cải cách ruộng đất Đảng Quốc dân tiến hành “chuyển công doanh sang tư doanh”, đem bán cổ phiếu của 4 ngành xi măng giấy, mỏ và nông lâm để trả thay tiền trưng mua ruộng đất. Kết quả biến một số điạ chủ trước cải cách thành các nhà công nghiệp lớn, mà nổi tiếng nhất là “tứ đại hào chủ”: Cố Chấn Phố, Lâm Do Long, Lâm Bá Thọ, Trần Khởi Thanh.
Sau năm 1950 nguyên tắc chỉ đạo của chính quyền Đài Loan là “hết sức thu hẹp phạm vi quốc doanh trong công nghiệp dân sinh”, “phân rõ phương hướng kinh doanh khác nhau giữa nhà nước và nhân dân”. Theo đó doanh nghiệp nhà nước chủ yếu kinh doanh ngành năng lượng, giao thông, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp chế tạo quy mô lớn, tiền tệ… Có quan hệ nhiều đến vận mệnh nền kinh tế và đầu tư lớn, những ngành tư nhân không tiện kinh doanh. Còn những mặt hàng dân dụng, trực tiếp quan hệ đến đời sống như: dệt, giấy, xi măng, đồ sinh hoạt hàng ngày… Giao hết cho tư bản tư nhân kinh doanh.
Kết quả, đến năm 1985, tỷ trọng giá trị sản lượng các doanh nghiệp dân doanh đạt 86% giá trị tổng sản lượng ngành công thương nghiệp, quốc doanh chỉ chiếm 14%. Hoàng Gia Thụ trong cuốn Đài Loan tiến trình hóa rồng đánh giá: “Sự phồn vinh của tư bản tư doanh đã cung cấp sức sống mạnh mẽ cho việc chấn hưng kinh tế Đài Loan”.
Tuy nhiên, việc thu hẹp quốc doanh và nâng đỡ dân doanh sẽ không thể nào đạt kết quả nếu song song với quá trình đó không có một chiến dịch “bàn tay sạch” của Đảng Quốc dân.
Đảng Quốc dân trước hết cách chức các giám đốc hữu danh vô thực, thay thế bằng những người “thích thú với sự nghiệp, có tinh thần trách nhiệm và khả năng thực tế phụ trách”. Sau khi áp dụng biện pháp này, những người chỉ đứng tên ăn lương nhờ quan hệ cá nhân làm giám đốc, chánh văn phòng… nhất là những người núp sau Tống Tử Văn, Khổng Tường Hy, Trần Quả Phu lần lượt bị đào thải.
Liên hệ với tình hình VN hiện nay, rõ ràng cần một người đủ sức mạnh, trí tuệ, sự đảm lược và tinh thần vì dân tộc tiến hành thanh lọc, cải cách, loại bỏ những kẻ ngồi không ăn bám trong các doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh đó, cần khôi phục Ban cố vấn của Thủ tướng trước đây, tập hợp các chuyên gia trong và ngoài đảng, trong và ngoài nước, tham gia nghiên cứu, tư vấn và khuyến nghị chính sách.
Để tránh sự thao túng thị trường tiền tệ, tránh hiện tượng biến tài sản nhà nước thành tài sản tư nhân của nhóm tư bản thân hữu, cần tham khảo một phương pháp mà Đài Loan đã áp dụng là thành lập chế độ Hội đồng tài chính một cách nghiêm khắc, tách rời quyền quản lý và quyền sở hữu ra. Ngân hàng nhà nước hiện nay cũng cần được cải tổ để trở thành ngân hàng trung ương đích thực, độc lập với chính phủ, có thể thuộc quyền giám sát trực tiếp của quốc hội, không tồn tại như một cơ quan của chính phủ như hiện nay.
  1. 2.     Nâng đỡ khối dân doanh phát triển
Không giống như Đài Loan những năm 1950, VN hiện nay, không có nhu cầu cải cách ruộng đất bức thiết, tuy nhiên, mô hình cánh đồng mẫu lớn của Công ty CP Bảo vệ thực vật An Giang cần được nhà nước hỗ trợ nhân rộng. Quy định sở hữu toàn dân về đất đai hiện nay cũng cần phải thay đổi, theo đó cần quy định đa sở hữu về đất đai với các chủ thể: Nhà nước, tư nhân, tổ chức, tập thể… làm thế vừa tránh chuyện lạm dụng, tham ô đất công, vừa giúp người dân bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu tư nhân về đất đai của mình.
Một khía cạnh nữa trong nông nghiệp, có thể cũng cần bàn tay nhà nước đó là “Lựa chọn nhóm hàng nông nghiệp mục tiêu – đẩy mạnh công nghiệp chế biến”. Bởi vì việc lựa chọn nhóm hàng mục tiêu, đi liền với đầu tư về nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, đòi hỏi vốn lớn, thời gian lâu dài, các doanh nghiệp tư nhân khó mà đảm đương trong một sớm một chiều.
Không chỉ trong nông nghiệp, đảm đương việc nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật, chuyên gia cho khối dân doanh cũng cần được áp dụng cho các khu vực sản xuất khác.
Hãy tham khảo một đoạn mô tả rất có ý nghĩa sau đây của Hoàng Gia Thụ về các chính sách Đài Loan đã thực thi: “Đến những năm 70, Chính quyền Đài Loan lại xúc tiến quá trình liên hợp của các xưởng cùng sản xuất một mặt hàng, tổ chức các công ty mậu dịch lớn có một mạng lưới cơ sở sản xuất và bán sản phẩm. Như vậy, vừa thống nhất được qui cách, chất lượng của các sản phẩm cùng loại, vừa mở rộng được quy mô sản xuất, lại tránh được trong tỉnh tàn sát nhau để người nước ngoài hưởng lợi.
Để khuyến khích sự hợp tác kỹ thuật giữa các hãng tư doanh với ngoại thương, chính quyền Đài Loan có đãi ngộ thích đáng đối với ngoại thương, cung cấp kỹ thuật tiên tiến và license cho Đài Loan, đồng thời cấp những khoản tiền lớn cho các hãng học tập và mua kỹ thuật mới. Thí dụ, để dẫn dắt cho sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu, chính quyền trước hết đầu tư cho cơ cấu nông nghiệp trồng thử ngô đường, thử nuôi cá quả Mỹ , thử chế biến bột tảo Chlorena và tinh tảo Chlorena… có hiệu quả rồi mới mở rộng. Để phát triển hàng cơ khí và đồ điện, chính quyền Đài Loan đã bỏ ra 20 triệu đài tệ mới để khuyến khích làm thử sản phẩm mới. Để thâm nhập vào thị trường đồ chơi quốc tế, chính quyền Đài Loan bỏ ra 200.000 đài tệ mới để thu thập mẫu đồ chơi ở các nơi trên thế giới, cung cấp cho các nhà sản xuất quan sát và bắt chước.
Về mặt xuất khẩu, chính quyền Đài Loan đặt trụ sở và mạng lưới mậu dịch ở hơn 80 nước và các khu vực, tham gia các triển lãm, hội chợ quốc tế, thường xuyên mời khách nước ngoài và các nhà kinh doanh đến Đài Loan tham quan, và cũng thường xuyên cử người đi chào hàng ở nước ngoài. Để mở rộng mạng lưới mậu dịch quốc tế, Đài Loan đã xây dựng các “Trạm phục vụ mậu dịch quốc tế” cung cấp cho ngoại thương các đường dây điện thoại và khuyến khích ngoại thương đặt các đại lý ở nước ngoài. Chính quyền còn treo các “phần thưởng ngoại thương” trao cho hãng nào xuất khẩu được nhiều”.
Tất nhiên, khối doanh nghiệp dân doanh của VN hiện nay đã trưởng thành hơn nhiều so với các nhà tư bản tư nhân của Đài Loan khi đó, tuy nhiên sự việc tính đến các biện pháp hỗ trợ vẫn cấn thiết.
Nhưng điều cốt yếu hơn là nhà nước trước tiên đừng cản trở. Mở rộng tràn lan các doanh nghiệp nhà nước thời gian qua là một cản trở, vì nguồn lực một nền kinh tế có giới hạn, khi các doanh nghiệp nhà nước chiếm dụng vốn, tài nguyên lại có lợi thế độc quyền, lợi thế thao túng chính sách thì khố doanh nghiệp tư nhân đương nhiên sẽ không còn đất để thở. Sẽ có các nhà doanh nghiệp khôn ngoan, bám vào sân sau các tập đoàn, các ông ty nhà nước để hưởng lợi, nhưng một nền kinh tế như thế chỉ dẫn đến lụn bại, vì nó không thể khuyến khích sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, đổi mới phương thức phục vụ để cạnh tranh sòng phẳng.
Cản trở thứ hai với khối dân doanh ở VN hiện nay là thủ tục hành chính, thuế khoá, hải quan, nhưng đây là những cản trở doanh nghiệp có thể thích ứng. Cản trở thứ ba, quan trọng hơn, đã đánh gục các doanh nghiệp mấy năm qua đó là chính sách tiền tệ. Khi ngân hàng nhà nước bị thao túng, chính sách tiền tệ chỉ phục vụ nhóm lợi ích hoặc sai lầm mà không được sửa chữa kịp thời thì các doanh nghiệp dan doanh phải gánh hết hậu quả. Lãi suất vốn vay có thời điểm lên đến 20-30% là bản án tử hình với các doanh gnhiệp dân doanh, với mức lãi suất này, họ không thể nào cạnh tranh với các doanh nghiệp khác như doanh nghiệp FDI được vay vốn giá rẻ ở nước ngoài. Rào cản về tiền tệ này, chẳng khác nào chính sách ngăn sông cấm chợ cuối thời nhà Nguyễn mà hậu quả khi đó là nền kinh tế, thương mại rơi hết vào tay người Hoa, các thương gia VN bị bóp nghẹt đồng thời mở ra cơ hội cho người Hoa thâu tóm, trục lợi. Những thành quả gần 20 năm Đổi mới vừa qua, có bị cuốn trôi hết chỉ với một cơn khủng hoảng hiện nay nếu chúng ta không kịp thời cải tổ.
Chương 3
Cải tổ chính trị
  1. 1.     Đổi tên Đảng
Lịch sử cho thấy ĐCS còn tồn tại được đến ngày nay là nhờ biết thay đổi, thích ứng, cải tổ trong những thời điểm quyết định. Khả năng đó mang lại kỳ vọng cho một cuộc cải tổ ở thời điểm hiện tại. Ở trên tôi đã nói về ám ảnh ý thức hệ của người Quốc gia, ở đây tôi sẽ nhấn mạnh đến ám ảnh này với người Cộng sản. Bản thân những người Cộng sản cũng đang bị nỗi ám ảnh ý thức hệ chưa buông tha. Muốn gỡ bỏ nó thật không dễ. Nhưng cứ thử xem.
Hãy nghe lại lời cố TBT Trường Chinh khi nói về việc đổi tên đảng thành Đảng Lao động VN: “Một số đồng chí ta chưa thông về việc đặt tên Đảng ta là Đảng Lao động VN. Có đồng chí băn khoăn vì tình cảm, cho rằng biết bao đồng chí ta đã hy sinh cho Đảng cộng sản Đông Dương, nay bỗng chốc phải từ biệt cái tên thân mến ấy thì đau đớn biết bao! Hoặc cho rằng tên “đảng lao động” đã bị quần chúng không ưu thích ở Anh rồi, ta giây vào cái tên ấy làm gì cho mệt!
Cố nhiên, bỏ tên Đảng cộng sản Đông Dương là một sự hy sinh. Hy sinh nào cũng đau đớn. Nhưng hy sinh vì lời ích cách mạng là hy sinh cần thiết. Ta không nên đứng về mặt tình cảm nhỏ hẹp mà nhận xét vấn đề đặt tên Đản, nên đứng về lợi ích cách mạng mà nhận xét thì đúng hơn”.
Chính cố TBT Trường Chinh là một tấm gương đáng nhắc lại để học tập về tinh thần tự đổi mới tư duy, tinh thần hy sinh vì lợi ích chung. Hiện nay kêu gọi hy sinh vì lợi ích cách mạng là không hợp lý. Hai chữ “cách mạng” thậm chí còn gây phản cảm. Nhưng lợi ích dân tộc thì sao? Tại sao các đảng viên cộng sản hiện nay không hy sinh vì lợi ích dân tộc. Tại sao không một lần nữa mạnh dạn đổi tên đảng, thành “Đảng Lao động mới” chẳng hạn. Làm như thế có dễ hoà giải, dễ đoàn kết dân tộc hơn không? Cương lĩnh chính trị cũng vậy, sao không thay kiên trì học thuyết Marx-Lenin đã lỗi thời bằng con đường “dựa trên nền tảng học thuyết Marx-Lenin, tiếp thu tinh thần những học thuyết kinh tế chính trị khác”. Học thuyết Marx-Lenin không phải sai hết, thành tích xoá đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục, phát triển y tế cộng đồng… của VN hiện nay và nhiều nước phát triển không thể không ghi nhận phần đóng góp của học thuyết này. Như thế, sau này ai thấy học thuyết Marx-Lenin có điểm gì hay, tiến bộ thì cứ nghiên cứu, phổ biến. Ai thấy các học thuyết khác có điểm gì hay, tiến bộ thì cũng ra công học hỏi, mang ra áp dụng. Làm như vậy chúng ta sẽ dễ dàng hơn để cởi trói tư tưởng, chữa bệnh quan liêu, duy ý chí. Thực tế cuộc sống hiện nay, khối quần chúng nhân dân đã quen với đa nguyên tư tưởng, quen với các luồng ý kiến khác biệt, ĐCS cũng cần thay đổi để thích ứng.
  1. 2.     Địa phương tự trị
Những thay đổi như đổi tên đảng, điều chỉnh cương lĩnh đòi hỏi nhiều hy sinh của các đảng viên cộng sản vì lợi ích dân tộc, nhưng những người Quốc gia, những tri thức cấp tiến, để đứng cùng đảng mới dưới lá cờ dân tộc thống nhất, họ còn phải hy sinh nhiều hơn. Có những rào cản vô hình nhưng vì vô hình nên cũng vô cùng khó vượt qua. Chỉ có sự thành thật mới có thể trợ giúp cho các bên trong những hoàn cảnh như thế. ĐCS phải thành thật muốn cải tổ, những người đối lập phải thực muốn thành tâm hợp sức.
Những lời cam kết đôi khi không quan trọng, những thay đổi lớn ngay tức khắc dễ dụ ngọt nhưng lại thường không bền vững. Với hiện trạng VN bây giờ, những thay đổi nhỏ, nhưng căn bản có thể sẽ có ích hơn cho sự thành thực của các bên. Tôi muốn nói đến việc nâng cao tính tự trị của địa phương. Mô hình chính quyền đô thị đã được thử nghiệm cần được mang ra mổ xẻ, rút kinh nghiệm để áp dụng cho toàn quốc. Những thành công trong việc xây dựng chính quyền ở Đà Nẵng cần được tham khảo. Những thay đổi, dù nhỏ nhất, nhưng sẽ rất khó đảo ngược nếu được người dân tiếp nhận trực tiếp. Đó là cơ sở cho đề xuất cải tổ tính tự trị của địa phương. Người dân mỗi tỉnh, huyện cần được bầu trực tiếp chủ tịch tỉnh, chủ tịch huyện, nghị viên hội đồng nhân dân tỉnh, nghị viên hội đồng nhân dân huyện.
Các tỉnh, huyện tự xây dựng và thực hiện cho mình các chính sách giáo dục, y tế, công thương nghiệp, giao thông, nông lâm, tài chính… miễn sao các chính sách này không trái với Hiến pháp, pháp luật trung ương.
  1. 3.     Cải tổ Quốc hội – chế độ bầu cử
Một Quốc hội mạnh, thực sự đại diện cho ý chí nhân dân là điều kiện tiên quyết cho tính bền vững của những cải tổ dân chủ.
Đại biểu Quốc hội cần là những đại biểu chuyên trách. Không một đại biểu Quốc hội nào được kiêm nhiệm các chức vụ trong bộ máy hành pháp trung ương hay địa phương.
Đại biểu Quốc hội nên phân theo địa phương. Số đại biểu mỗi địa phương căn cứ theo dân số, một số địa phương đặc thù có thể được xem xét tăng thêm về số lượng, việc này phải do Quốc hội quy định. Nên quy định đại biểu địa phương nào, nhất thiết phải cư trú tại địa phương đó, quy định này vừa có ý nghĩa với việc tăng quyền lực tự trị địa phương, vừa có ý nghĩa giúp cử tri giám sát đại biểu của mình tốt hơn, bản thân đại biểu vì cư trú tại địa phương cũng sẽ có nhiều áp lực hơn, có trách nhiệm hơn với tiếng nói, lá phiếu của mình tại Quốc hội. Tuy đại diện cho địa phương, nhưng đại biểu phải phục vụ cho lợi ích chung của quốc gia, không phải cho lợi ích cục bộ địa phương.
Ứng cử viên đại biểu Quốc hội có thể do Đảng mới đề cử, do Mặt trận tổ quốc đề cử hoặc tự ứng cử với điều kiện thu thập được một số lượng chữ ký ủng hộ nhất định. Nhất thiết phải bỏ quy định hiệp thương phi dân chủ hiện nay.
Cần quy định rõ chế độ nguyên thủ quốc gia. Với cơ cấu hiện hành, điều chỉnh cho phép nhân dân bầu trực tiếp Chủ tịch nước là có khả năng thực thi cao nhất. Chủ tịch nước sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân dân, khi nhận chức cần tuyên thệ trung thành tuyệt đối với tổ quốc, hơn mọi đảng phái, ý thức hệ. Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang, chịu trách nhiệm đối ngoại, đề xuất thành viên nội các.
Nội các có một Thủ tướng đứng đầu, chủ yếu lo công tác đối nội, điều hành nền kinh tế. Thủ tướng và các Bộ trưởng do Chủ tịch nước đề cử, phải được Quốc hội thông qua, sẽ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và có thể bị bãi miễn bởi Chủ tịch nước.
Ứng cử viên Chủ tịch nước do Đảng mới, hoặc Mặt trận tổ quốc đề cử, hoặc ứng viên có thể tự ứng cử với điều kiện thu thập được một số chữ ký nhất định. Dù trong trường hợp nào cũng phải có ít nhất hai ứng viên cho một cuộc bầu cử.
Nguyên tắc tương tự được áp dụng cho các cuộc bầu cử tỉnh trưởng, huyện trưởng ở địa phương.
Việc vận động tranh cử là bắt buộc. Người dân cũng được tự do tham gia quá trình đề cử, vận động, tham gia vào công việc chính trị như mọi việc khác. Đó là quyền cơ bản của mọi người dân. Việc người dân bày tỏ thái độ ủng hộ người này, phê phán người kia là chuyện bình thường ở một quốc gia có dân chủ. Không thể quy kết họ phe phái, gây rối để bắt bớ khi họ bày tỏ thái độ chính trị. Cần chấm dứt ngay tình trạng độc quyền hoạt động chính trị của ĐCS hiện nay.
  1. 4.     Chấm dứt tình trạng một quốc gia – hai nhà nước
Hiện nay, cơ cấu đảng và các hội đoàn của nó tồn tại như một nhà nước thứ hai ở VN, song song, thậm chí bên trên nhà nước pháp định. Mỗi người dân VN nghiễm nhiên phải gánh trên vai một lúc hai nhà nước. Tình trạng này cần chấm dứt.
Các hội đoàn quốc gia, tiêu tốn ngân sách như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ… cần giải thể, nếu không giải thể thì phải tự túc kinh phí hoạt động của mình. Ngân sách nhà nước cần dùng cho các việc khác cần thiết hơn là chi vào những hội đoàn quốc gia mà sự tồn tại của nó chỉ tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người trong và ngoài hội, gây ra sự mất đoàn kết sâu rộng, trong các khối quần chúng nhân dân.
Có thể trong giai đoạn đầu, sẽ chỉ có hai tổ chức được cấp ngân sách hoạt động là Đảng mới và Mặt trận tổ quốc. Nhưng ngân sách cấp cho các tổ chức này phải được công khai và do Quốc hội quyết định, giám sát. Mặt khác, Quốc hội có thể đề ra hạn định để hai tổ chức này cũng phải có lộ trình để tự túc kinh phí hoạt động, chấm dứt việc sử dụng ngân sách quốc gia.
Vấn đề quân đội phải trung thành với Đảng bây giờ mới được đề nghị đưa vào Hiến pháp, nhưng thực tế bộ máy chính trị trong quân đội hiện nay đã mang bản chất Đảng trị quân đội từ lâu. Không một quốc gia dân chủ thực sự nào có một thể chế Đảng trị quân đội như thế. Tuy nhiên, việc ngay lập tức loại bỏ hệ thống này trong quân đội là rất khó. Có thể bắt buộc điều chỉnh cương lĩnh tuyên truyền của hệ thống chính trị theo hướng, loại bỏ các tôn chỉ ý thức hệ, quy định: “Quân đội phải tuyệt đối trung thành với tổ quốc, bảo vệ hạnh phúc, sự bình an của nhân dân”.
Hội đoàn quốc gia, cũng như chế độ công chức – biên chế thực chất là những “hầm trú ẩn” nó giúp chính quyền củng cố quyền lực của mình nhưng với các công chức trong đó, nó làm nhụt ý chí tự do, động lực lao động sáng tạo. Một công chức đã yên vị trong biên chế, anh ta có thể không cần một chút cố gắng nào cũng sẽ có một cuộc sống bình an và với anh ta bất cứ thay đổi nào cũng sẽ là một lựa chọn không khôn ngoan. Anh ta sẽ bám vào biên chế bằng bất cứ giá nào. Trên một bình diện rộng, cơ chế công chức, biên chế hiện nay là thứ thuộc độc hại làm suy đồi sức sống của quốc gia. Chưa kể, cơ chế này còn tạo ra một sự bất bình đẳng, những lợi thế phi lý và những mâu thuẫn ngấm ngầm trong tổ chức, cộng đồng xã hội. Vì thế, cùng với việc giải thể các hội đoàn quốc gia, cần xóa bỏ cơ cấu biên chế hiện nay. Một biện pháp mà chính quyền Đài Loan đã áp dụng khá thành công theo Hoàng Gia Thụ là chế độ luân chuyển công chức. Chẳng hạn, công chức phòng công chứng quận A, có thể sẽ được luân chuyển sang quận B sau hạn kỳ 2 năm, để tránh nguy cơ công chức hành chính ngồi lâu một chỗ cấu kết, lũng đoạn. Một kinh nghiệm khác của Đài Loan là luân chuyển kế toán trong các doanh nghiệp nhà nước. Do tính chất tương đồng của công việc kế toán, tránh sự cấu kết giữa kế toán và giám đốc doanh nghiệp, khi cải cách doanh nghiệp nhà nước, Đài Loan đã đặt ra chế độ luân chuyển kế toán giữa các doanh nghiệp theo hạn kỳ 2 hoặc 3 năm. Đó cũng có thể là một cơ chế chúng ta có thể tham khảo để áp dụng.
  1. 5.     Cải cách hệ thống tư pháp – thực thi tự do ngôn luận, báo chí, xuất bản
Nhất thiết phải có một tòa án Hiến pháp độc lập, để mọi người dân có thể bảo về quyền hợp hiến của mình. Tổ chức lại hệ thống tư pháp, đảm bảo tính độc lập, khả năng phán xét theo công lý của tòa án, đó là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng tinh thần thượng tôn pháp luật.
Nhất thiết phải bỏ ngay các điều luật phản dân chủ, bóp nghẹt tự do ngôn luận như Điều 79, 88 và 258 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố thả ngay những người bị án vì lí do chính trị.
Cải cách tư pháp có thể sẽ cần thời gian dài và gặp nhiều vấp váp, nhưng việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản có thể thực hiện ngay. Trước hết, là mở cửa cho báo chí tư nhân, thực tế đã tồn tại dưới nhiều hình thức ở nước ta. Cổ phần hóa các đơn vị báo chí trực thuộc nhà nước hiện hành. Chuyển các cơ quan tuyên truyền, tuyên giáo thành cơ quan nghiên cứu thuần túy. Chấm dứt các tiêu chuẩn ý thức hệ trong kiểm duyệt xuất bản.
  1. 6.     Tổ chức cơ quan thống kê độc lập
Thiết kế Tổng cục thống kê trực thuộc Bộ Kế hoạch – Đầu tư hiện nay có nguy cơ bị lũng đoạn cao, ở khía cạnh các con số có thể bị làm sai lệch một cách có chủ đích để bảo vệ lợi ích của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương liên quan. Trong một nền kinh tế hội nhập, những con số thống kê hết sức phức tạp và quan trọng. Nó đặc biệt quan trọng với những quốc gia như VN, khi trong trường hợp có cải tổ thì khu vực kinh tế nhà nước, bàn tay nhà nước trong nền kinh tế vẫn sẽ giữ vị trí quan trọng. Các con số thống kê khách quan, chính xác sẽ là cơ sở để các quyết sách đúng đắn được đưa ra, cơ sở để các chuyên gia độc lập đưa ra các khuyến nghị chính xác.
Vì thế nhất thiết cơ quan thống kê cần được độc lập với chính phủ, có thể hoạt động như một cơ quan độc lập của Quốc hội, chịu sự giám sát của Quốc hội.
Chương 4
Cải cách giáo dục – chấn hưng văn hoá

  1. 1.     Thiết kế hệ thống giáo dục theo nguyên tắc “Tự trị – Thực hành”
Tôi thấy những thảo luận về triết lý giáo dục là chủ đề vô cùng theo nghĩa có nhiều trường phái, luôn xuất hiện các trường phái mới và kết quả có thể là đi đến những lý luận vòng quanh mà những sửa đổi quan trọng thì lại không thể đưa ra. Vì thế ở đây tôi sẽ chú trọng đến việc “Thiết kế Hệ thống giáo dục”. Hệ thống giáo dục của Pháp đã áp dụng ở Việt Nam trước năm 1945 cần được coi là có giá trị tham khảo tốt. Hệ thống giáo dục của này đã được hình thành và áp dụng trong một quá trình dài lâu cùng với quá trình khai thác thuộc địa ở VN, nên sẽ có những cơ sở cho niềm tin vào sự thích ứng tương đối với thực trạng VN hiện nay.
Mặt khác, nếu bỏ qua những yếu tố khai thác thuộc địa thì hệ thống giáo dục này vẫn giữ những tinh thần tự do cơ bản của nước Pháp trong giáo dục và đặc biệt, vì mục tiêu khai thác của nó, trong nhiều thiết kế của hệ thống này có giá trị thực tiễn, tính thực thi cao với chi phí thấp cho chủ thể nhà nước, đặc biệt trong khu vực đào tạo nghề chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
Cơ sở của hệ thống này là nguyên tắc tự trị. Khi đề cập đến nguyên tắc tự trị, tức là đồng thời chúng ta phải gỡ bỏ những rào cản hiện nay của giáo dục nước ta.
Rào cản đầu tiên là rào cản ý thức hệ.
Đất nước Việt Nam là của người Việt Nam hay là của ông Marx-Lenin?
Là của người Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam là của người Việt Nam hay của ông Marx-Lenin?
Là của người Việt Nam.
Vậy tại sao chương trình giáo dục từ phổ thông đến đại học, cao học… học thuyết Marx-Lenin phải chiếm vị trí độc tôn như hệ thống triết học, đạo đức, tư tưởng duy nhất?
Cần loại bỏ tình trạng này trong thiết kế chương trình giáo dục mới. Cần đặt học thuyết Marx-Lenin  đúng vị trí của nó, chỉ là một phần nhỏ trong thế giới tư tưởng nhân loại, trong hệ thống tư tưởng, học thuyết cần cho sự giáo dục đào tạo người Việt Nam.
Rào cản thứ hai là rào cản biên chế. Việc loại bỏ biên chế đã nói ở trên đương nhiên cũng cần áp dụng cho ngành giáo dục. Tôi thấy cơ chế biên chế hiện đang tạo ra một sự bất bình đẳng và tiêu cực lớn trong ngàng giáo dục. Nó là một trong những nguyên nhân làm giảm chất lượng, suy đồi đạo đức giáo viên và qua đó là chất lượng giáo dục. Rất khó đòi hỏi một giáo viên phải mất hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng để chạy vào biên chế một sự lành mạnh, nguyên vẹn trong tâm hồn mình.
Rào cản thứ ba là rào cản ngân sách và sự phụ thuộc của địa phương, các trường đại học, cao đẳng vào ngân sách nhà nước. Đây thực chất là mô hình quản lý nhà nước tập trung, xuyên suốt từ  trung ương đến địa phương. Trong một trình độ phát triển thấp, số lượng trường lớp, học sinh, sinh viên có giới hạn mô hình này có thể phát huy hiệu quả. Nhưng trong một trình độ giáo dục phát triển cao, nhu cầu đào tạo đa dạng, số lượng trường lớp, học sinh sinh viên lớn mô hình này sẽ trở thành một rào cản, ngáng trở sự phát triển.
Với hệ thống giáo dục phổ thông
Loại bỏ được sự độc quyền ý thức hệ là cơ sở để gỡ bỏ sự độc quyền viết, xuất bản phổ biến sách giáo khoa, sách tham khảo ở các cấp học.
Trong nền giáo dục Pháp thuộc cũ, chương trình học do nhà nước quy định có tính cách bắt buộc trong việc giảng dạy nhưng sách giáo khoa lại hoàn toàn do các nhà xuất bản mời người biên soạn. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều giáo trình do các học giả VN, Pháp soạn thảo theo nguyên tắc này như: Văn học Sử yếu của Dương Quảng Hàm, Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim… Thiết kế này vừa tạo ra tính tự chủ cho các soạn giả, nhà giáo trong việc lựa chọn và thiết kế bài giảng, khuyến khích các học giả, nhà giáo nghiên cứu phát triển học thuật, sáng tạo tự do trong bài giảng. Mở cửa việc soạn thảo sách giáo khoa cho các cá nhân, tổ chức đồng thời tạo ra một khả năng lựa chọn đa dạng, cơ sở để có những sản phẩm sách tốt.
Thiết kế này đi liền với tính tự chủ của trường học, địa phương. Chẳng hạn cùng một chương trình toán cấp 3, sẽ có 5 bộ sách tham khảo của 5 nhóm tác giả khác nhau. Khi đó, việc chọn sách nào để dạy cho học sinh trong một trường A sẽ do Hội phụ huynh học sinh trường đó biểu quyết, quyết định. Nếu Hội phụ huynh không tự biểu quyết có thể trao quyền cho Hội đồng nhà trường. Việc lựa chọn sách có thể phân chia theo các nhóm học khác nhau nếu theo chương trình phân ban. Điểm cốt yếu trong thiết kế này là sự tự chủ của nhà trường, phụ huynh học sinh (đại diện cho học sinh), trong việc lựa chọn sản phẩm giáo dục cho con em  mình.
Địa phương tự chủ về giáo dục, nghĩa là các địa phương hoàn toàn tự chủ trong việc chi ngân sách, chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng, thu hút đào tạo nhân lực… dưới sự giám sát của hội đồng nhân dân địa phương. Địa phương tự chủ về giáo dục đồng nghĩa với việc để địa phương chủ động trong việc chi trả lương cho giáo viên cấp học phổ thông. Mức lương có thể cần được quy định để đảm bảo một cuộc sống ổn định cho giáo viên trong mọi hoàn cảnh. Với những địa phương có khó khăn về ngân sách, trung ương có thể có những cơ chế hỗ trợ đặc thù.
Với hệ thống đào tạo nghề chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học
Thứ nhất, chúng ta có thể cân nhắc tiếp tục phát triển các trường vừa học vừa làm theo mô hình hiện nay. Theo mô hình này, những học sinh chỉ cần tốt nghiệp phổ thông cơ sở (lớp 9) có thể vào học các trường này, vừa tiếp tục học văn hóa tương đương cấp phổ thông trung học, vừa học nghề.
Thứ hai, hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng. Từ Cao đẳng ở đây tôi dùng theo nghĩa Cao đẳng École Supérieure – khác với trường gọi là cao đẳng hiện nay ở VN.
Tôi thấy xu thế bỏ các trường cao đẳng (cao đẳng của Việt Nam hiện nay), trung cấp nghề hiện nay của Việt Nam là phù hợp. Các trường này có thể gộp trung vào các trường đào tạo nghề vừa học vừa làm đã nói ở trên.
Trong hệ thống đào tạo cao nhất, chỉ nên gồm các trường Đại học (Université) và Cao đẳng (École Supérieure).
Chúng ta hãy tham khảo học chế đã được người Pháp áp dụng tại Việt Nam cho bậc học Cao đẳng và Đại học. Trường Cao đẳng (École Supérieure) là loại trường chuyên nghiệp, nhập học phải hội đủ điều kiện văn bằng đòi hỏi (tốt nghiệp phổ thông trung học) và qua một kỳ thi tuyển (concours). Trúng tuyển được cấp học bổng ăn học suốt học trình. Tốt nghiệp phải làm việc cho chính quyền một thời gian ấn định, nếu không, theo nguyên tắc, phải bồi thường tiền học bổng. Các trường cao đẳng, đào tạo các chuyên viên có nghề nghiệp nhất định như bác sĩ, kỹ sư, công chức, giáo sư… Đây là những nghề nghiệp đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, cần những tiêu chuẩn khắt khe về nghề nghiệp, người ra trường thường chỉ có thể làm được đúng nghề mình được đào tạo (khó có thể làm trái ngành). Các trường này có thể coi là thuộc hệ thống trường công do nhà nước bỏ chi phí đào tạo (một phần) và phục vụ các mục tiêu chiến lược của nhà nước.
Chúng ta, hiện nay có thể áp dụng mô hình này trong việc quản lý chất lượng giáo dục, về chi phí đào tạo, có thể nhà nước chỉ chi trả (dưới dạng cấp học bổng) cho những ngành đào tạo này gắn với nguồn nhân lực nhà nước cần, mà thị trường đào tạo không hoặc khó có khả năng cung cấp như: Kỹ sư nông nghiệp, bác sỹ cộng đồng, công chức hành chính, giáo viên phổ thông… Ngoài ra các ngành nghề khác mà thị trường có nhu cầu cao, có khả năng kiếm việc dễ và thu nhập cao, sinh viên phải tự túc học phí, nhà nước chỉ hỗ trợ thông qua các chương trình cho vay vốn. Đương nhiên khi đó, ra trường sinh viên tự túc tìm việc làm.
Hệ thống trường Đại Học (Université) có thể xếp vào hệ thống trường tư muốn nhập học các trường đại học chỉ cần đủ điều kiện về văn bằng đòi hỏi mà không phải qua một kỳ thi tuyển. Việc thu nhận sinh viên không hạn định tuổi tác và số lượng. Sinh viên phải tự túc về học phí (ngoại trừ những sinh viên xuất sắc được học bổng). Khi tốt nghiệp chính quyền không có nhiệm vụ cung cấp việc làm, cá nhân phải tự tìm kiếm. (Tham khảo: Trần Bích San – Thi cử giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp).
Đất nước ta không thể đứng một mình một cõi. Dân số nước ta cũng không thể đông như người Trung Quốc để có thể lấy số đông mà áp chế người. Ai cũng biết chúng ta cần hội nhập, cần phát triển. Hội nhập, phát triển thì không thể đóng khung tư tưởng con em mình, đóng khung nền giáo dục nước nhà như  những “Con ngựa già của chú Trịnh” chỉ thấy một bầu trời nhỏ hẹp qua khe mắt.
  1. 2.     Chấn hưng văn hóa
Cải cách giáo dục, gỡ bỏ áp chế về tư tưởng cần đi đôi với việc chấn hưng văn hóa. Học giả Nguyễn Khắc Viện trong cuốn Đạo và Đời có kể một câu chuyện rất đáng suy nghĩ như sau: Ông kể rằng thời trẻ, ông một anh học trò Tây học, dù biết rằng mình hơn hẳn những anh nhà nho quần chùng áo dài khi đó về kiến thức khoa học, thậm chí địa vị trong xã hội, nhưng vẫn có một cái gì đó mặc cảm. Vẫn thấy ở anh nhà nho kia cái gì đó nể vì, dù biết rằng anh ta hủ lậu. Sau đó, Nguyễn Khắc Viện đã giải thích sự nể vì đó là hồn cốt, là cái cao quý của nhà nho, là cái văn hóa của dân tộc. Với chương trình Tây học Nguyễn Khắc Viện học được thật nhiều kiến thức, nhưng lại thật ít đạo, đạo làm người, đạo trời đất, đạo ở đời, những thứ mà bất kỳ anh khóa nào cũng vượt trội hơn hẳn mình. Điều đó không khó giải thích vì những bài học chữ nghĩa đầu tiên của các nhà nho đã đều là các bài học đạo lý thâm sâu về trời đất con người “nhân tri sơ, tính bản thiện”. Không chỉ học, các nhà nho, các anh khóa còn áp dụng và có ý thức áp dụng ngay những đạo lý mình đã học thành châm ngôn hành động của mình.
Ngày nay, ta có thể gặp không ít người nhiều năm sống ở trời Tây, theo học có bằng cao học, tiến sỹ ở châu Âu mà vẫn mang một đầu óc đầy định kiến và ấu trĩ. Tinh thần, văn hóa phương Tây không dễ gì tiếp nhận được ngày một ngày hai. Phương pháp khoa học, phương pháp nghiên cứu chỉ cần cố gắng trong vài tháng vài năm là có thể lĩnh hội được, nhưng cái tinh thần, hồn cốt căn bản thì đòi hỏi rất nhiều.
Để có được tinh thần khoa học, tinh thần dân chủ tự do bây giờ người phương Tây đã có một lịch sử phát triển dài lâu, hồn cốt của tinh thần này họ truyền qua thế hệ con cháu từ thói quen, tập tục đến những tác phẩm nghệ thuật, thơ ca, văn chương, hội họa, âm nhạc… Hiểu và lĩnh hội những thứ đó cần một sự nỗ lực thực sự và một thời gian đủ lớn để trải nghiệm.
Nền nho học cũ của chúng ta đã không giúp quốc gia chống chọi với đại bác thực dân Pháp, nhưng ít ra nó, với lực lượng đông đảo các nho sinh, ông tú, ông cử trải rộng, đi sâu khắp xã hội, cũng giúp phổ biến, gìn giữ, những phẩm giá cao quý của con người. Nền nho học, có thể cần được nhìn nhận theo cách khác, không phải chỉ đào tạo ra những người đi làm quan, mà còn đạo tạo ra những người quân tử trong cộng đồng. Nhà nho trong một cộng đồng, dù ở chức vị nào cũng là biểu trưng cho văn hóa, cho những giá trị cao đẹp và bản thân họ cũng ý thức, gìn giữ những giá trị này, khác hẳn với các quan chức công quyền hiện nay. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ nghiêm túc.
Chúng ta cùng suy nghĩ lại thật nghiêm túc về nền giáo dục, về sự nghiệp chấn hưng văn hóa ngày nay, khi có lẽ chúng ta ngày nay đã chỉ “hớt váng” những thành quả khoa học phương Tây, chưa đi sâu được vào căn cốt, lại đồng thời mai một những giá trị, những hồn cốt cao quý của dân tộc.
Cũng học giả Nguyễn Khắc Viện đã đánh giá, sau cách mạng tháng 8, đặc biệt là sau phong trào đưa trí thức về nông thôn, văn học VN đã tiếp nhận được một làn gió mới với các sáng tác từ đồng ruộng đi ra. Người nông dân rũ bùn, gạt mồ hôi bước vào văn học, các sáng tác về người nông dân, của chính những người nông dân nở rộ hơn bao giờ hết, đẩy lùi trào lưu văn học lãng mạn tiểu tư sản những năm 1930. Bỏ qua một vài khía cạnh tích cực của trào lưu này thì tôi cho rằng hệ quả tiêu cực của nó, cùng với Nhân văn Giai phẩm, cùng với nạn Sùng bái cá nhân, nền văn học, văn hóa nước nhà đã có một cuộc đảo lộn ngoạn mục và kinh khủng, văn hóa tiểu nông lên ngôi. Những tri thức, những tinh hoa dân tộc bị đẩy lùi, bị giam hãm vào một góc tối không thể nào cựa quậy được. Đó là bi kịch cho bất cứ một dân tộc nào gặp phải.
Trong Việt Nam văn hóa sử cương học giả Đào Duy Anh đã nhận định trong mỗi người Việt Nam có một ông quan và một nhà thơ. Một ông quan có vẻ gì đó kiêu bạc và một nhà thơ có tâm hồn mơ mộng. Tôi hiểu ý của Đào Duy Anh là phê phán, chính ông quan và nhà thơ này, vì kiêu bạc, vì mơ mộng đã thực không phải là những con người hành động, để cải tổ, để canh tân để đổi mới đất nước, mà gần nhất (thời Đào Duy Anh) là giúp dân tộc VN tránh được gần 100 năm nô lệ thực dân.
Nhưng cũng với “ông quan và nhà thơ” ngày nay, nếu một mặt “ông quan ngày nay” vẫn giữ được cốt cách của người quân tử, một mặt vẫn không ngừng cởi mở học hỏi không ngừng, không chịu thua kém tụt hậu với bạn bè lân bang thì lại là tốt. Còn “nhà thơ”, chẳng phải cả người châu Âu hiện nay đang tìm lại bản năng xúc cảm, đề cao trí tưởng tượng hay sao? Sao không biến tinh thần nhà thơ này thành tinh thần tiến thủ, tinh thần dám phiêu lưu mạo hiểm, dám đối mặt với mọi nguy nan, dám thám hiểm, khám phá mọi chân trời mới dù đó là chân trời địa lý hay tri thức – khoa học?
Tôi đã thấy những xu hướng mới đáng khích lệ, các bậc cha mẹ ngày nay đã quan tâm hơn đến sự phát triển trí tuệ, văn hóa của con mình, không chỉ dừng ở việc học trên lớp. Nhiều bàn luận về văn hóa đọc, cách đọc, khuyến khích con đọc sách đã được đưa lên báo chí, diễn đàn thảo luận. Theo tôi cách tốt nhất để tạo cho con mình có thói quen đọc sách là bản thân mình hãy có thói quen đọc sách. Khi con cái thấy mình đọc thì tự chúng sẽ tìm đến sách mà đọc. Khi con cái thấy nhà có tủ sách đủ loại thì tự chúng nó có hứng mà đọc, tò mò mà đọc. Đọc sách cũng đừng cầu mong tìm ngay tri thức như tìm hòn ngọc, viên kim cương. Tôi chẳng thấy có quyển sách nào có thể là kim chỉ nam cho cả đời người. Sách chỉ nên coi là bạn, bạn đường, bạn tâm sự, những ý tưởng, những gợi cảm từ cuốn sách chỉ nên coi là chất xúc tác cho ta suy tư hơn là tìm kiếm dễ dãi một phương thức hành động, một triết lý để ta bám vào đó mà theo. Tự ta phải suy tư là căn bản.
Tôi cũng thấy nhiều người quá chú trọng vào việc chọn sách, cách đọc sách. Theo tôi thì mỗi người có một cách đọc khác nhau, mỗi người có một gu đọc khác nhau, hình thành trong chính quá trình tìm, đọc sách của họ. Hãy bắt đầu bằng những cuốn sách, những vấn đề mình quan tâm thích thú, dần dần bạn sẽ có cách đọc, có gu đọc sách của riêng mình. Những bài điểm sách, những bài giới thiệu sách của các học giả có uy tín có thể giúp bạn nhanh chóng hơn trong việc tìm kiếm các chủ đề, cuốn sách mình quan tâm, nhưng điều đó không thể thay thế cho việc đọc. Có một học giả đánh giá cao ông Tập Cập Bình – TBT Trung Quốc vì “ông Bình là lãnh đạo biết đọc sách. Người đọc sách có khả năng tư duy các vấn đề phức tạp”.
Google, Vikipedia ngày nay có thể cung cấp cho ta ngay lập tức hầu như mọi kiến thức phổ thông; báo chí, đặc biệt là báo điện tử có thể cung cấp cho chúng ta thông tin 24/24; nhưng việc kiên nhẫn đọc hết một quyển sách đọc, lĩnh hội được ý nghĩa toàn thể của nó chắc chắn sẽ là một trải nghiệm tư duy khác, một sự rèn luyện trí tuệ khác.
Nói về chuyện đọc sách mở mang kiến thức là nói đến thị trường sách, môi trường học thuật. GS Trịnh Văn Thảo trong cuốn Ba thế hệ tri thức người Việt đã có ý nuối tiếc và cả kỳ vọng về một trào lưu học thuật, tư tưởng của một thế hệ tri thức người Việt vừa nhen nhóm và đã vội lụi tắt ở miền Nam trước năm 1975.
Vậy sao chúng ta ngày không cùng chung tay để khơi lại những mạch nguồn này. Đừng chờ đợi. Chúng ta không muốn làm nô lệ thì chúng ta phải tự thân vận động. Hãy làm những việc chúng ta coi là có ích trong phạm vi năng lực của mình và sẵn sàng hợp tác với những người đồng chí hướng. Khi chúng ta chờ đợi và trông cậy vào chính quyền vào nhà nước là chúng ta đã chui một nửa người vào vòng áp chế, nô lệ của chính quyền. Người Mỹ không làm thế.
Khi nghiên cứu về nền dân trị Mỹ A.Tocqueville đã thấy tinh thần tự chủ của từng người dân Mỹ chứ không phải thiết kế khôn ngoan đã giúp người Mỹ có một nền dân trị tốt đẹp. Trước khi kêu gọi sự trợ giúp của chính quyền, dù đó là một việc làm vì lợi ích chung, người Mỹ sẽ tự làm, tự vạch ra kế hoạch hành động và kêu gọi người khác cùng chung tay. Tinh thần tự chủ này, đến nay ta vẫn còn thấy, qua các cơn khủng hoảng như sau vụ khủng bố 11/9, người ta thấy những người dân Mỹ tự tập hợp nhau thành nhóm để bảo vệ các cửa hàng, cửa hiệu của ngưởi Ả Rập trước khi chờ đợi lực lượng cảnh sát của chính quyền tìm đến.
Ngày nay, Việt Nam chúng ta cũng có thể tìm thấy những tấm gương tự chủ như thế, nhóm Cánh Buồm trong giáo dục, chương trình Tủ Sách Nông Thôn của anh Nguyễn Quang Thạch, nhóm Cơm Có Thịt của nhà báo Trần Đăng Tuấn, nhóm Áo ấm biên cương… cùng rất nhiều các nhóm từ thiện khác. Đó là những ví dụ tiêu biểu cho tinh thần tự chủ. Chúng ta cần thật nhiều, những con người, những nhóm có tinh thần tự chủ như thế ở nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt trong lĩnh vực học thuật. Việc xuất bản các tập san, các tạp chí được tổ chức tốt, có tính học thuật cao sẽ không chỉ là môi trường để những nhà nghiên cứu, học giả thi thô tài năng, khuyến khích nghiên cứu, sáng tạo.. mà còn giúp xã hội nhìn nhận ra những giá trị đích thực, những học giả đích thực. Đừng chờ đợi chính quyền, chúng ta, mỗi người hãy thử nghĩ xem liệu có thể làm được những gì thì hãy bắt tay ngay vào làm.
Lời kết
Đề ra một chương trình cải tổ cho cả một đất nước, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng là một sự mạo hiểm to lớn. Nhưng vì e ngại mạo hiểm mà tất cả bó tay, chùn gối thì đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ đi đến đâu?
Trên tinh thần tự chủ, bắt tay ngay vào việc đã thúc đẩy chính tôi quyết định viết ra chương trình này. Tôi cũng xin hết sức lưu ý, những ý kiến đưa ra ở đây cần được nhìn nhận thật đúng mức, đó là ý kiến của một cá nhân đưa ra để cùng thảo luận, chia sẻ, vì thế, nó mang mọi hạn chế của cá nhân đề xuất ra nó và mọi tính khả nghi chân lý. Tôi cho rằng, bất cứ ý kiến nào đưa ra sai hay đúng, nếu được thảo luận dân chủ, tự do cuối cùng chân lý sẽ lộ diện, đó cũng chính là ưu thế của dân chủ, tự do mà độc tài, áp chế không thể có.
Nhà thơ Gia Hiền đã ngậm ngùi viết: “Thế hệ tôi/một thế hệ cúi đầu”.
Nhưng tại sao? Tại sao? Tại sao?
Tại sao chúng ta không phải là một thế hệ ngẩng mặt? Một thế hệ dấn thân? Một thế hệ thay đổi?
Chỉ cần ngay hôm nay mỗi người, hãy thử thay đổi thái độ của mình, thử một lần vượt lên lợi ích cá nhân, lợi ích phe nhóm. Hãy thử một lần vượt lên oán thù, vượt lên định kiến ý thức hệ. Hãy thử một lần đặt dân tộc lên trên hết, chúng ta, dân tộc chúng ta sẽ có một tương lai khác.
Nguyễn Đắc Kiên