Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2013

Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam với việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị

QĐND  - 09/11/2013 19:11

QĐND - Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lần đầu tiên ở Việt Nam các quyền công dân và quyền con người của người dân Việt Nam được Nhà nước ghi nhận, bảo đảm. Các quyền công dân, quyền con người đã được khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và công bố (ngày 2-9-1945) và trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới-Hiến pháp 1946. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thể hiện rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm quyền cơ bản của người dân, trong đó có quyền dân sự, chính trị. Điều này được thể hiện rõ trong đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là cơ sở chính trị, tinh thần và sức mạnh của Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Quyền dân sự được hiểu là những quyền gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác. Quyền chính trị là những quyền và tự do cơ bản của cá nhân. Những quyền này đã được ghi trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, năm 1966. Việt Nam đã tham gia Công ước này vào năm 1982. Theo quan niệm của Đảng và Nhà nước Việt Nam ta, việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị thực chất đó là phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, việc thụ hưởng các quyền dân sự, chính trị của người dân luôn được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử, việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị có những đặc trưng khác nhau. Chẳng hạn, trong những năm tháng chiến tranh, đất nước chia cắt, việc bầu cử, ứng cử không diễn ra bình thường được, nhưng sau khi đất nước thống nhất (1975) các cuộc bầu cử Quốc hội được thực hiện theo đúng quy định của Hiến pháp, 4 năm một lần. Chế độ nhiệm kỳ của Quốc hội và các chức danh quan trọng của Nhà nước được thực hiện theo đúng quy định của Hiến pháp…
Trong thực hiện nhóm các quyền dân sự, chính trị đó, quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin luôn được Nhà nước Việt Nam ưu tiên hàng đầu và trên thực tế đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng. Tính đến hết quý 1-2013, Việt Nam có 812 cơ quan báo in với 1.084 ấn phẩm; gần 17.000 nhà báo được cấp thẻ; 1 hãng thông tấn, 67 đài phát thanh, truyền hình, 101 kênh truyền hình, 78 kênh phát thanh; 74 báo và tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội, 1.174 trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động. Đài Tiếng nói Việt Nam hiện đã phủ sóng 99,5% diện tích lãnh thổ, qua vệ tinh tới nhiều nước trên thế giới. Sóng truyền hình của Đài Truyền hình Việt Nam đã đến với hơn 90% hộ gia đình Việt Nam. Bằng nhiều hình thức cung cấp, người dân Việt Nam được tiếp xúc với 75 kênh truyền hình nước ngoài. Hơn 20 cơ quan báo chí nước ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam. Nhiều báo, tạp chí in bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài được phát hành rộng rãi. Qua internet, nhân dân Việt Nam có thể tiếp cận tin tức, bài vở của hầu hết các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới…
Từ việc xác định vai trò cực kỳ quan trọng của internet, Nhà nước Việt Nam có chính sách, biện pháp cụ thể để khuyến khích sử dụng internet phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm các quyền cơ bản của nhân dân. Năm 2012, Tổ chức Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) xếp Việt Nam đứng thứ ba tại Đông-Nam Á, thứ 8 tại châu Á về số lượng người sử dụng internet...
Cùng với đó, việc bảo đảm và tôn trọng tự do tôn giáo, tín ngưỡng, đoàn kết dân tộc đã trở thành một nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Còn nhớ trong những ngày đầu của Nhà nước Việt Nam mới, Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (tại phiên họp đầu tiên ngày 3-9-1945) đã xem việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một nhiệm vụ cấp bách. Tại cuộc họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, vấn đề có tính nguyên tắc trong chính sách tôn giáo của Việt Nam là: "Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết". Tư tưởng ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta thể hiện rõ trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Quan tâm đến công tác tôn giáo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung và đời sống của đồng bào các tôn giáo nói riêng là một trong những nguyên tắc lãnh đạo, quản lý xã hội và điều hành đất nước của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Điều này được thể hiện rất rõ trong các văn kiện, các chủ trương, chính sách của Đảng. Để thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều pháp lệnh, chỉ thị, quyết định về công tác tôn giáo. Điều 1 Pháp lệnh về Tín ngưỡng, Tôn giáo khẳng định chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau”… Sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước Việt Nam được thể hiện rất rõ trong các đạo luật. Tại Điều 10 Hiến pháp năm 1946 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Đến Hiến pháp năm 1959, tại Điều 26, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi rõ hơn: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Ở Hiến pháp năm 1980, tại Điều 68, ngoài quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”, còn có thêm nội dung: “Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Đến Hiến pháp năm 1992, việc thể chế hóa thành pháp luật quyền tự do tôn giáo của công dân được thể hiện rộng rãi, toàn diện hơn nữa tại Điều 70: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”… Các dẫn chứng trên là quá đủ để khẳng định rằng, trong hệ thống hiến pháp, pháp luật Việt Nam “tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người”. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang được Quốc hội thảo luận, thông qua thời gian tới, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vẫn được trân trọng hiến định.
Trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt là trong những năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong thực hiện các chủ trương, chính sách về tôn giáo. Đời sống tôn giáo ở Việt Nam chưa bao giờ sôi động như hiện nay. Theo thống kê, hiện nay có tới 95% số dân Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, trong đó hơn 25 triệu người là tín đồ của 37 tổ chức tôn giáo. Đến nay, đã có 13 tổ chức tôn giáo được Nhà nước Việt Nam lần lượt xem xét và công nhận về mặt tổ chức hoặc cho đăng ký hoạt động. Cả nước có khoảng 25.000 cơ sở thờ tự. Hằng năm, có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng bản địa cấp quốc gia hoặc do địa phương được tổ chức… Như vậy, so với trước đây số lượng tôn giáo, tổ chức tôn giáo cũng như số lượng tín đồ của các tôn giáo ở Việt Nam đã tăng lên rất nhiều. Các tôn giáo ở Việt Nam không chỉ phát triển về số lượng tín đồ mà còn phát triển cả về phạm vi, quy mô các cơ sở giáo hội, cũng như số lượng các chức sắc và nhà tu hành…
Duy trì và mở rộng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành trong các tôn giáo ở Việt Nam luôn được quan tâm. Ở Việt Nam, hiện có 45 trường đào tạo chức sắc tôn giáo ở các cấp. Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam luôn chủ động trong việc củng cố tổ chức, phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển và bổ nhiệm các vị chức sắc, nhà tu hành để chăm lo việc đạo theo điều lệ của các tôn giáo và quy định của pháp luật. Công tác báo chí, in ấn, xuất bản liên quan đến tôn giáo được Nhà nước Việt Nam quan tâm, bảo đảm yêu cầu hoạt động của các tôn giáo. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin… Khách quốc tế khi đến đất nước Việt Nam đều dễ dàng nhận thấy mọi sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều diễn ra bình thường, không gặp bất cứ sự cản trở nào.
Cùng với việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách chăm lo đến đời sống của bà con giáo dân. Các bộ, ban, ngành, đoàn thể và các địa phương đã cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bằng nhiều chương trình hành động và kế hoạch thực hiện phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, tập trung giải quyết vấn đề an sinh xã hội, phát triển văn hóa, tạo điều kiện cho các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào. Công tác tuyên truyền, vận động các chức sắc, đồng bào có đạo tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, sống "tốt đời, đẹp đạo", đồng hành cùng dân tộc và tham gia các hoạt động xã hội từ thiện, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm trật tự an toàn xã hội được đẩy mạnh… Những thành tựu của Việt Nam trong thực hiện chủ trương, chính sách về tự do tôn giáo được đông đảo cá nhân và các tổ chức quốc tế thừa nhận.
Không phủ nhận rằng, hiện nay, trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo vẫn còn những khiếm khuyết do trình độ nhận thức của cán bộ, công chức hạn chế và do một số người thiếu hiểu biết về chính sách, pháp luật đã có những hành vi vi phạm pháp luật buộc các cơ quan chức năng phải xử lý. Tuy nhiên, điều đó không thể phủ nhận đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta nhất quán tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân./.
BẮC HÀ-KIM NGỌC
copy từ baomoi.com